Đề bài: Nghe và kể lại câu chuyện Chiếc ví.
Top 10 bài Nghe và kể lại câu chuyện Chiếc ví 2024 SIÊU HAY
Nghe và kể lại câu chuyện Chiếc ví - Mẫu 1
Một nhà từ thiện tới làm việc ở thành phố nọ. Bỗng nhiên, ông phát hiện chiếc ví tiền rơi đâu mất. Người trợ lí của ông cho rằng có lẽ chiếc ví bị mất khi đi bộ qua khu nhà ổ chuột trong thành phố. Nhà từ thiện hi vọng ai đó nhặt được ví sẽ liên hệ với mình. Nhưng sau hai giờ, vẫn không có tin tức gì. Người trợ lí nói: “Trong ví có danh thiếp, người nhặt được ví nếu muốn trả lại chỉ mất vài phút gọi điện thoại. Nhưng chắc họ không định trả lại đâu.”.
Nhà từ thiện vẫn kiên nhẫn chờ. Khi trời sắp tối, chuông điện thoại bỗng vang lên. Giọng một cậu bé nhắn họ đến nhận ví tại một địa điểm. Mặc cho người trợ lí lo rằng đây có thể là một cái bẫy để tống tiền, nhà từ thiện vẫn lái xe đến đó.
Đến nơi, họ thấy một cậu bé với bộ quần áo rách rưới tiến về phía họ. Trên tay cậu ta là chiếc ví của nhà từ thiện. Người trợ lí nhận lại chiếc ví, không quên kiểm tra và thấy ví có rất nhiều tiền.
Cậu bé ngập ngừng nói:
- Chú có thể cho cháu một ít tiền không?
Người trợ lí mỉm cười đắc ý: “Tôi biết mà...”. Nhưng nhà từ thiện ngắt lời anh ta và tươi cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu tiền.
- Cháu chỉ cần một đô la. - Cậu bé xấu hổ nói.
Nhà từ thiện ngạc nhiên:
- Tại sao lại là một đô la vậy, cháu?
Lúc này, cậu bé mới kể lại câu chuyện:
- Cháu tìm mãi mới thấy trạm điện thoại, nhưng cháu không có tiền. Vì vậy, cháu phải mượn tiền của một người để gọi điện. Bây giờ cháu cần phải trả cho họ.
Đôi mắt trong veo cùng những lời nói của cậu bé nghèo khiến người trợ lí vô cùng xấu hổ, chỉ biết cúi đầu lặng im. Còn nhà từ thiện thì ôm cậu bé vào lòng.
Sau sự việc, nhà từ thiện quyết định đầu tư xây dựng một số trường học ở thành phố để trẻ em từ các khu ổ chuột nghèo khổ có thể đến trường học miễn phí.
Theo ĐĂNG DƯƠNG
Nghe và kể lại câu chuyện Chiếc ví - Mẫu 2
Nhà từ thiện đi công tác ở một thành phố nọ và phát hiện chiếc ví của mình đã mất. Người trợ lí nghĩ chiếc ví bị rơi khi đi qua khu nhà ổ chuột. Nhà từ thiện rất hi vọng sẽ có người nào đó nhặt được ví và trả lại cho mình. Hai người đợi đến tối muộn thì có một cậu bé gọi đến. Cậu hẹn nhà từ thiện địa điểm nhận lại ví. Tuy người trợ lí lo sợ rằng đây có thể là lừa đảo nhưng nhà từ thiện vẫn quyết định lái xe đi. Đến nơi, họ gặp một cậu bé nhà nghèo. Cậu trả lại chiếc ví và xin nhà từ thiện một số tiền. Trong khi người trợ lí cho rằng cậu đòi hỏi, hám lợi thì nhà từ thiện lại ôn tồn hỏi xem cậu muốn bao nhiêu. Cậu bé ngại ngùng đáp rằng mình cần một đô-la. Điều này khiến nhà từ thiện vô cùng ngạc nhiên. Cậu bé kể lại rằng mình tìm rất lâu mới thấy trạm điện thoại, nhưng lại không có tiền, phải đi mượn tiền từ một người khác để gọi. Nghe xong câu chuyện, hai người lớn vô cùng ngạc nhiên. Người trợ lí lặng im xấu hổ, còn nhà từ thiện ôm cậu bé vào lòng. Từ đó, nhà từ thiện quyết định đầu tư xây dựng thêm nhiều trường học để trẻ em từ các khu ổ chuột có thể đi học miễn phí.
Nhà từ thiện làm việc ở thành phố nọ thì phát hiện mình bị rơi mất chiếc ví tiền. Ông hi vọng sẽ có ai đó nhặt được ví rồi liên hệ với mình. Nhà từ thiện đến gặp cậu bé với hi vọng lấy được chiếc ví mất của mình và nghĩ cậu bé nhặt được hẳn sẽ là một người tốt, có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Cậu bé đề nghị nhà từ thiện có thể cho mình một đô la. Lí do cậu bé muốn xin một đô la là để trả nợ tiền gọi điện thoại vay từ một người khác. Khi nghe câu chuyện của cậu bé, nhà từ thiện và người trợ lí có phản ứng ngạc nhiên, lặng im; nhà từ thiện thì ôm cậu bé vào lòng.
Kiểu nhân hoá nào được sử dụng trong các câu thơ, câu văn sau?
a) Buổi sớm, khi cậu gà ri tê tái chạy ở trong chuồng ra, dẫn đầu ba chị gà, một bác ngan với một lũ con líp nhíp và mấy thím vịt thì ở nóc chuồng, chọi ta cũng nhảy xuống, hai cái chân gieo bịch trên nền đất.
Theo TÔ HOÀI
b) Bắt đền trăng đấy
Trốn vào sau mây
Để buồn cỏ cây
Khóc mưa thút thít.Trái bòng chẳng thiết
Nằm ườn trên mâm
Quả na lặng câm
Mắt nhìn xa vắng.
NGUYỄN ĐÌNH XUÂN
c) Khi cô sách giáo khoa nói đến những cuốn sách như thế, cả hộp chữ chúng tôi xôn xao hẳn lên, tất cả reo nhảy mừng rỡ. Chúng nó tranh nhau hỏi hết câu này đến câu khác làm cho cô không còn biết trả lời thế nào.
Theo TRẦN HOÀI DƯƠNG
Đề bài: Viết 1-2 câu tả đồ vật hoặc con vật, cây cối có hình ảnh nhân hóa.
Đọc lại và tóm tắt bài văn Cây si theo bảng sau:
Bố cục |
Ý chính của đoạn |
Nội dung |
Mở bài |
Giới thiệu về cây si |
|
Thân bài |
Miêu tả các bộ phận của cây si |
Rễ si: |
Lá si: |
||
Kết bài |
Nêu cảm nghĩ về cây si |
|
Viết một đoạn văn ngắn (4 – 5 câu) tả cây cối, trong đó có hình ảnh nhân hóa.
Tìm biện pháp nhân hoá trong hai khổ thơ sau:
Đứng đâu là cao đấy
Mà chẳng che lấp ai
Dáng khiêm nhường, mảnh khảnh
Da bạc thếch tháng ngày.
Mà tấm lòng thơm thảo
Đỏ môi ngoại nhai trầu
Thương yêu đàn em lắm
Cho cưỡi ngựa tàu cau.
ĐẶNG HẤN
Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi:
Cây si
Cây si bao giờ cũng già hơn những cây khác, từ cây si cổ thụ bên giếng đầu làng đến cây si bé tí trong hòn non bộ của ông.
Rễ si làm thành bộ “râu” độc đáo của si. Bộ râu si rất rậm và dài. Những ngày sắp mua hoặc sau mưa, cây si lại càng già thêm vì râu cứ trắng ra. Cây si khác cây đa là những chòm râu ấy không thành những thân phụ, mà bao giờ cũng vẫn chỉ là bộ râu loà xoà. Còn cây đa, đến một ngày nào đó, có những râu sẽ ăn xuống đất, lồn lên, thành thân cây: một cây đa có khi có đến năm, sáu gốc.
Lá si tuy nhỏ nhưng nhiều nên bao giờ cũng cho bóng mát. Bước vào dưới bóng một cây si, sờ vào tùng chòm râu, ta cảm thấy mát rượi và quên ngay cái nắng gay gắt ngoài đường. Cây si không bao giờ rụng lá hàng loạt như cây bằng, cây sấu, cây xà cừ, cây xoan. Cây si già hơn những cây khác vì chòm râu nhưng cũng luôn trẻ hơn những cây khác vì xanh lá quanh năm.
Lá si tặng con người bóng mát, còn chòm râu thì để trẻ ngắm nghĩa mà nhớ đến ông nội, ông ngoại của mình, những người giả luôn yêu quý các em.
Theo BẰNG SƠN
a) Bài văn có mấy đoạn? Nêu nội dung của từng đoạn.
b) Cây si được miêu tả theo trình tự nào?
Đề bài: Quan sát và ghi lại kết quả quan sát một cây hoa mà em yêu thích.
Cấu tạo của bài văn tả cây cối
Trình tự miêu tả trong bài văn sau có gì khác bài văn Cây si?
Cây bàng
Đối với Thuỷ, cây bàng này thật thân thiết. Mùa hè, hết tầng lá nọ đến tầng lá kia che kín không cho một tia nắng nhỏ rồi được xuống đất. Những cái lá to của nó toàn một màu xanh ngắt, màu xanh mát mẻ biết bao nhiêu!
Sang cuối thu, lá của nó ngả màu vàng tía, cái màu fía kì diệu ấy không thể thấy ở bất cứ một cây nào khác, càng nhìn càng thấy đẹp. Đỗ anh hoạ sĩ nào pha được đúng cái màu fía ấy của lá bàng cuối thu!
Qua mùa đông, cây bằng trụi không còn một lá, cành như khô lại, in trên nền trời đục. Trong những ngày rét nhất, đám cảnh trơ trụi đó như cố co mình lại để chịu cho được cái rét buốt của mùa đông. Thuỳ và các bạn thấy thương xót trong lòng, những cảnh trụi hết lá kia trơ trơ ngoài trời chắc là rét lắm!
Cho tới mùa xuân, chỉ một đêm thôi, chồi xanh li ti đã điểm kín cành to, cảnh nhỏ. Rồi từng ngày, từng ngày, những chồi xanh ấy lớn nhanh như thổi, mỗi ngày một khác, mỗi lúc một khác nữa kia. Mùa xuân của cây bàng cũng như tuổi thơ của nó vậy.
Theo ĐẢO VŨ
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
Ông Mặt Trời óng ánh
Ông Mặt Trời óng ánh
Toả nắng hai mẹ con
Bóng con và bóng mẹ
Dắt nhau đi trên đường.
Ông nhíu mắt nhìn em
Em nhíu mắt nhìn ông
“Ông ở trên trời nhé!
Cháu ở dưới này thôi!”.
Hai ông cháu cùng cuối
Mẹ cười, đi bên cạnh.
Ông Mặt Trời óng ánh...
NGÔ THỊ BÍCH HIỀN
a) Sự vật nào được nhân hoá trong bài thơ?
b) Sự vật đó được nhân hoá bằng cách nào?
Cau
Đúng đâu là cao đấy
Mà chẳng che lấp ai
Dáng khiêm nhường, mảnh khảnh
Da bạc thếch tháng ngày.
Muốn cao thì phải thẳng
(Bài học ở cây cau)
Thân bền khinh bảo tổ
Nhờ mưa nắng dãi dầu.
Mà tấm lòng thơm thảo
Đỏ môi ngoại nhai trầu
Thương yêu đàn em lắm
Cho cưỡi ngựa tàu cau.
Nơi cho mây dũng nghỉ
Để đi bốn phương trời
Nơi chim về ấp trứng
Nở những bài ca vui.
Tai lắng tiếng ríu ran
Thoảng thơm trong hơi thở
Chắc chim mới ra ràng
Ồ! Hoa cau đang nở
(ĐẶNG HẤN)
Tìm các khổ thơ ứng với mỗi ý sau:
a) Tả hình dáng cây cau.
b) Nêu ích lợi của cây cau.
c) Thể hiện tình cảm của tác giả với cây cau.
Giải ô chữ:
Dựa vào gợi ý, tìm chữ cái phù hợp với mỗi ô trống để hoàn thành các từ theo từng dòng.
Dòng 1: Nói * không sợ mất lòng.
Dòng 2: Đói cho sạch, * cho thơm.
Dòng 3: Thẳng như * ngựa.
Dòng 4: Tre già. * mọc.
Dòng 5: Giấy rách phải * lấy lề.
Dòng 6: Ăn ngay nói *, mọi tật mọi lành.
Dòng 7: Ngang bằng sổ *.
Dòng 8: Danh * là điều quý nhất.
Dòng 9: * ngay không sợ chết đứng.
Đề bài: Viết 3 câu tả đồ vật hoặc con vật, cây cối có hình ảnh nhân hóa.
* Nội dung chính Những chú bé giàu tưởng tượng
Bằng những câu chuyện tưởng tượng, tán dóc mà vừa có thể mua vui, gây tiếng cười cho nhau; vừa có thể giúp xoa dịu, an ủi những người xung quanh nhờ câu chuyện vui của mình; Mi-sa và Xa-sa đã biến trí tưởng tượng của mình trở nên thiết thực, hữu ích hơn bao giờ hết.
Những chú bé giàu trí tưởng tượng
Mi-sa và Xa-sa ngồi chơi ngoài sân chung cư. Hai cậu thi tán dóc. Mi-sa bảo:
– Có lần, tớ giẫm phải một chiếc xe buýt. Vừa nghe đánh “roạt” một cái, xe đã bẹp rúm.
– Xạo quá! Làm sao cậu giẫm bẹp được chiếc xe buýt?
– Thì nó là đồ chơi, nhỏ xíu ấy mà.
Đến lượt Xa-sa:
– Một đêm, tớ bay lên Mặt Trăng.
Mi-sa cười phá lên:
– Thế cậu trông thấy gì nào?
– Tớ bay ban đêm nên không thấy gì. Bay mãi... bay mãi... rồi rơi huych xuống đất. Thế là tỉnh dậy.
– Sao cậu không nói ngay từ đầu là cậu ngủ mê?
Nghe hai bạn tán dóc, l-go xen vào:
– Các cậu khoác lác quá thể!
– Nhưng chúng tỏ có lừa dối ai đâu! Chỉ tưởng tượng thôi, như kể chuyện cổ tích ấy mà.
I-go xì một cái, tỏ vẻ coi thường. Chúng cãi nhau. Rồi Mi-sa và Xa-sa bỏ về. Qua quầy kem, hai cậu bé lục hết các túi, vừa đủ tiền mua chung một gói kem. Mi-sa bảo:
– Chúng mình về nhà lấy dao cắt cho đều.
Đến cầu thang, hai cậu bé gặp I-ra. Mắt cô bé đỏ hoe. Mi-sa hỏi:
- Vì sao em khóc?
– Em bị mẹ mắng. Anh I-go ăn vụng mút, lại bảo là em ăn.
Xa-sa bảo:
– Thôi, đừng khóc nữa! Về nhà đi, anh sẽ cho em phần kem của anh.
- Thế các anh không thích kem à?
– Hôm nay, bọn anh ăn phải đến mười que kem rồi ấy chứ!
I-ra đề nghị:
– Tốt nhất là chia kem ra làm ba phần.
Về đến nhà Mi-sa, ba anh em chia kem làm ba phần. Mi-sa gật gù:
– Có lần tớ ăn hết nhẵn cả một thùng kem.
I-ra cười to:
– Úi dà, anh lại bịa chuyện rồi! Ai mà tin được!
– Thì thùng kem nhỏ bằng cái cốc ấy mà!
Theo NÔ-XỐP (Hoàng Anh dịch)
Những câu chuyện của Mi-sa và Xa-sa có gì thú vị?
Đề bài: Trình bày ý kiến của em về tính cách của các nhân vật trong câu chuyện đã học ở Bài 3.