Đề bài: Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc.
Top 10 bài Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc 2024 SIÊU HAY
Em sinh ra và lớn lên ở Hội An – một thành phố cổ khá nổi tiếng. Nhưng không vì thế mà ở đây không có chiến tranh. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đã có một người phụ nữ từng dũng cảm đứng dậy đấu tranh. Đó là chị Huỳnh Thị Lựu.
Huỳnh Thị Lựu sinh ra ở vùng đất Cẩm Thanh. Từ khi còn nhỏ, chị đã có tinh thần yêu nước và tấm lòng căm thù giặc nồng nàn. Chị đã tham gia vào đội du kích quê nhà khi còn rất nhỏ. Lúc đầu làm giao liên, sau chị chuyển qua y tá. Mặc dù phải thức khuya dậy sớm, chị vẫn rất nỗ lực và luôn hoàn thành công việc được giao một cách xuất sắc. Khi thì đi chuyển công văn, khi thì đi đưa đón cán bộ, có khi chị còn giả trang đi diệt những tên ác ôn. Cũng bởi vì thế nên mọi người trong đội ai cũng yêu mến chị.
Sau đó, chị được chuyển qua bộ đội địa phương và làm Y tá trưởng Đại đội 2 đặc công của thị xã Hội An. Hơn 2 năm, Lựu đã đi tung hoành khắp nơi để chống trả các cuộc càn quét. Trận nào chị cũng có mặt, vừa chiến đấu vừa chữa trị cho thương binh.
Đầu năm 1969, chị theo đơn vị đánh chiếm nội ô thị xã. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 ngày đơn vị đã chiếm được toàn bộ trận địa. Riêng chị Lựu không chỉ băng bó cho các anh em bị thương mà còn tự tay cầm súng chiến đấu. Trong một trận phản kích của địch, sau 3 lần đánh trả, Lựu bị thương rất nặng, máu ra nhiều, sức lực giảm, súng hết đạn, địch lại tăng quân bao vây chặt nơi Lựu đang ẩn nấp. Tuy đã rất nguy ngập, chị vẫn không muốn rơi vào tay địch. Đợi giặc đến thật đông, chị dùng hết sức lực cuối cùng của mình đập gãy khẩu súng rồi tung quả pháo cuối cùng. Hàng chục tên địch chết nhưng chị cũng đã anh dũng hi sinh.
Hiện nay, thành phố Hội An để ghi nhớ công lao của chị đã đặt tên một trường học theo tên chị, Huỳnh Thị Lựu. Và em chắc chắn rằng, hôm nay và mãi về sau, mọi người sẽ luôn nhớ đến chị – một người con gái gan dạ của vùng đất phố cổ đã từng một thời chiến tranh…
Chị Võ Thị Sáu
Tuổi thơ em luôn tràn ngập những câu chuyện của bà. Đó là thế giới của những nhân vật cổ tích, của những người anh hung dũng cảm hy sinh về đất nước. Trong đó, em luôn nhớ câu chuyện về người nữ anh hùng Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một miền quê với truyền thống yêu nước. Từ nhỏ chị Sáu đã chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào. Bởi vậy 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Chị đã lập nhiều chiến tích vang dội, diệt trừ tên ác ôn và nhiều lần phát hiện gian tế.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị đã ném lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng. Thế nhưng không may mắn một lần nhận nhiệm vụ ném lựu đạn chi đã bị giặc bắt. Chị bị tra tấn dã man nhưng không hề khai báo điều gì. Bọn địch đã kết án tử hình cho chị và chuyển chị ra nhà tù Côn Đảo.
Trên đường ra chiến trường, chị không hề sợ hãi, ngắt một bông hoa ven đường và tặng cho người lính hành hình chị. Trước cái chết, chị kiên quyết không quỳ xuống, từ chối bịt mắt, đối diện với cái chết của mình rất bình tĩnh. Điều ân hận nhất của chị là chưa diệt hết được bọn thức dân Pháp. Trước khi chết, Chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Chị đã ngã xuống nhưng chắc chắn tấm gương của chị vẫn còn sáng mãi.
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép, xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giày mới...
Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác....
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...
Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...
Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...
Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn “thọ” lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...
Bài thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền mới, nhà nước non trẻ phải đối diện với những “kẻ thù” đó là giặc đói, giặc dốt, ngân khố trống rỗng, thù trong giặc ngoài… tất cả đều đe dọa đến sự tồn vong của đất nước. Đặc biệt nạn đói năm Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói.
Giữa lúc “quốc khố khánh kiệt”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào “Hũ gạo cứu đói”. Người nêu ra biện pháp khắc phục: “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… Tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”. Tiếp đó, để cổ vũ tinh thần cứu đói, Người đã viết bài “Sẻ cơm nhường áo” đăng trên báo Cứu Quốc số 53 (28/9/1945) với nội dung như sau: “…Lúc chúng ta bưng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước. Cứ 10 ngày nhìn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói. Tôi chắc rằng, đồng bào ta ai cũng sẵn lòng cứu khổ cứu nạn mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên…”
Trong khi chờ đợi thu hoạch ngô, khoai (khoảng ba, bốn tháng) sẽ mở một cuộc quyên góp. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại phát cho người đói. Bác thực hiện đúng như vậy và tới lấy phần gạo của mình, tự tay đổ vào hũ gạo chống đói. Thời gian càng lùi xa càng thấy đây quả là một “phát minh” màu nhiệm. Ngày ấy, chủ trương vừa đưa ra, tại các thôn làng, đi khắp hang cùng ngõ hẻm đâu đâu cũng nô nức phong trào “Hũ gạo cứu đói”.
Hạt gạo lúc này rõ ràng quý hơn cả vàng bạc, châu báu. Ngày ngày, người nọ tự giác nhắc người kia mỗi bữa bớt một lẻ gạo, chỉ mong mau chóng được đầy hũ để mang đi cứu giúp những gia cảnh khó khăn. Qua phong trào “Hũ gạo cứu đói”, lịch sử lại được chứng kiến thêm một sự thật, một đỉnh cao vời vợi về lẽ sống “Lá rách ít đùm lá rách nhiều”.
Bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Câu chuyện Đôi dép Bác Hồ là một câu chuyện nhỏ, nhưng mang ý nghĩa lớn như một minh chứng sinh động về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức sang trọng. Chính cốt cách giản dị ấy đã góp phần làm tôn lên sự vĩ đại của Người. Cuộc đời của Người từ một thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công - Poanh đến khi làm Chủ tịch nước, sống giữa thủ đô Hà Nội, vẫn luôn giữ một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã. Suốt đời Người sống trong sạch vì dân, vì nước, vì con người, không gợn một chút riêng tư. Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ mãi là tấm gương sáng cho bao lớp người Việt Nam noi theo.
Ngày xưa, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Nhân dân phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng, sống trong đau khổ và áp bức. Lúc bấy giờ, ở Mê Linh, có hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị, con của một Lạc tướng, rất yêu nước và có lòng căm thù giặc sâu sắc. Khi chồng của Trưng Trắc là Thi Sách bị giặc giết hại, Hai Bà đã quyết định đứng lên tập hợp nghĩa quân, phất cờ khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc.
Hai Bà Trưng đã kêu gọi nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều nghĩa sĩ khắp nơi kéo về theo Hai Bà. Những người phụ nữ dũng cảm cũng tham gia, như Bà Man Thiện (mẹ Hai Bà Trưng), Bát Nạn tướng quân, Ả Chạ, Hồ Đề... Nghĩa quân rèn vũ khí, luyện tập ngày đêm, quyết tâm đánh đuổi quân Hán ra khỏi bờ cõi.
Năm 40 sau Công nguyên, Hai Bà Trưng chính thức phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân từ Mê Linh kéo về đánh chiếm các thành trì của quân Hán. Nhờ lòng yêu nước và sự đoàn kết, quân ta liên tiếp giành thắng lợi. Chỉ trong một thời gian ngắn, 65 thành trì của quân Hán đã bị đánh bại, quân giặc hoảng sợ tháo chạy về nước.
Sau chiến thắng, Hai Bà Trưng lên ngôi, xây dựng đất nước, trả lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo đã thành công rực rỡ.
Nhưng chỉ hai năm sau, nhà Hán lại đem quân sang đánh nước ta. Hai Bà Trưng cùng nghĩa quân quyết tâm chống giặc, nhưng do quân giặc quá mạnh, nghĩa quân dần dần suy yếu. Để bảo vệ danh dự và lòng tự tôn dân tộc, Hai Bà Trưng đã lao mình xuống sông Hát Giang để giữ trọn khí tiết anh hùng.
Dù cuộc khởi nghĩa cuối cùng thất bại, nhưng tinh thần quật cường, bất khuất của Hai Bà Trưng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Hai Bà đã chứng minh rằng phụ nữ cũng có thể lãnh đạo quân đội, đánh bại kẻ thù xâm lược, làm nên những chiến công lẫy lừng.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một trong những trang sử hào hùng của dân tộc ta. Hai Bà đã dạy cho chúng ta bài học về lòng yêu nước, ý chí kiên cường và sự đoàn kết dân tộc. Ngày nay, để tưởng nhớ công lao của Hai Bà, nhân dân ta đã lập đền thờ Hai Bà Trưng và ghi nhớ chiến công oanh liệt của hai vị nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Vào năm 1911, khi đất nước Việt Nam còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Bác Hồ (Nguyễn Ái Quốc lúc đó) đã quyết định rời xa quê hương để tìm kiếm con đường cứu nước. Đây là một quyết định vô cùng quan trọng trong cuộc đời của Bác, vì đó là bước đầu tiên trong hành trình tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức.
Vào lúc đó, đất nước ta chịu sự đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam phải sống trong cảnh đói nghèo, đau khổ. Bác Hồ lúc ấy là một thanh niên rất yêu nước, rất thương dân, nhưng khi quan sát tình hình đất nước, Bác nhận thấy rằng cách đấu tranh truyền thống không thể giải quyết được vấn đề. Bác muốn tìm một con đường mới để cứu nước, giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ.
Bác quyết định ra đi tìm đường cứu nước, không chỉ để học hỏi từ các nước trên thế giới mà còn để tìm cách giải quyết vấn đề của dân tộc mình.
Ngày 5/6/1911, từ cảng Sài Gòn, Bác Hồ lên chiếc tàu "Đô đốc Latouche Tréville" rời đất nước, bắt đầu hành trình đi tìm con đường cứu nước. Bác không thông báo với ai, không nói với gia đình, chỉ một mình rời khỏi quê hương. Chuyến đi này kéo dài suốt hơn 30 năm, Bác đi qua nhiều quốc gia, từ Pháp, Anh, Mỹ, Liên Xô cho đến các nước châu Âu, tìm hiểu về các phong trào cách mạng, học hỏi từ những lãnh đạo kiệt xuất của các dân tộc yêu tự do.
Trong suốt chuyến đi dài này, Bác không chỉ học hỏi về chính trị, mà còn tìm hiểu về cuộc sống, phong tục và chế độ cai trị của các quốc gia. Từ những cuộc gặp gỡ với những người yêu nước, những phong trào đấu tranh giành độc lập ở các quốc gia khác, Bác đã học được rất nhiều điều quý giá. Bác nhận ra rằng chỉ có con đường cách mạng vô sản mới có thể giúp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ.
Trong suốt quá trình tìm kiếm, Bác đã đọc rất nhiều sách báo, gặp gỡ các lãnh tụ cách mạng và đặc biệt là nghiên cứu tư tưởng của các nhà cách mạng nổi tiếng như Marx, Engels, Lenin. Sau một thời gian dài tìm hiểu, Bác Hồ đã tìm ra con đường cách mạng vô sản, tức là con đường cách mạng của giai cấp công nhân và nông dân, để đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Sau khi đã tìm ra con đường cứu nước, Bác Hồ trở về nước vào năm 1941, mang theo một lý tưởng và một con đường đấu tranh rõ ràng. Chính nhờ vào sự hiểu biết sâu rộng về các phong trào cách mạng trên thế giới và niềm tin vào sức mạnh của nhân dân, Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành lại độc lập từ tay thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945.
Câu chuyện về việc Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước là một phần quan trọng trong cuộc đời của người lãnh đạo vĩ đại. Hành trình dài 30 năm của Bác không chỉ là một chuyến đi xa, mà còn là sự kiên trì, khát vọng cháy bỏng muốn giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân. Tấm gương của Bác Hồ đã truyền cảm hứng cho bao thế hệ người Việt Nam, và mãi mãi là bài học về lòng yêu nước, tinh thần kiên cường và trí tuệ trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do.
Vào đầu thế kỷ XI, nước ta dưới triều đại nhà Lý đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Lúc bấy giờ, kinh đô của Đại Việt vẫn đặt tại Hoa Lư (Ninh Bình). Đây là một vùng đất có địa thế hiểm trở, thuận lợi cho phòng thủ nhưng lại không phù hợp để mở rộng đất nước. Nhận thấy điều đó, vua Lý Thái Tổ đã có một quyết định quan trọng: dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, nơi về sau được gọi là Thăng Long.
Một ngày nọ, khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi trên sông Nhị Hà (sông Hồng ngày nay), vua nhìn thấy một con rồng vàng bay lên giữa bầu trời. Vua tin rằng đây là điềm lành, báo hiệu vùng đất này sẽ trở thành nơi phát triển phồn thịnh. Vì vậy, vua đã đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long, có nghĩa là "rồng bay lên".
Sau đó, vua Lý Thái Tổ ban hành Chiếu dời đô, trong đó ông nêu rõ lý do vì sao kinh đô cần chuyển về Thăng Long. Ông cho rằng đây là vùng đất tốt, rộng rãi, bằng phẳng, có sông núi bao quanh, giao thông thuận lợi, thích hợp để xây dựng một kinh đô lâu dài. Nhận thấy quyết định của vua là đúng đắn, triều đình và nhân dân đã cùng nhau di chuyển kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long.
Sau khi dời đô, vua Lý Thái Tổ cho xây dựng hoàng cung, thành quách, đền đài nguy nga, tạo ra một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất nước. Nhờ có địa thế thuận lợi, Thăng Long nhanh chóng trở thành một thành phố trù phú, giao thương nhộn nhịp.
Không chỉ có vậy, kinh đô mới còn giúp bảo vệ đất nước tốt hơn. Vì nằm ở vị trí trung tâm, Thăng Long giúp quân đội dễ dàng kiểm soát và ngăn chặn kẻ thù từ phương Bắc. Từ đây, nước Đại Việt bước vào một thời kỳ hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng.
Việc dời đô ra Thăng Long không chỉ là một sự thay đổi địa điểm, mà còn là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nước ta. Nhờ có quyết định sáng suốt của vua Lý Thái Tổ, Thăng Long trở thành một kinh đô vững mạnh, mở ra thời kỳ phát triển hưng thịnh cho đất nước.
Hơn một ngàn năm đã trôi qua, nhưng Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ vững vị trí là trái tim của cả nước, là trung tâm văn hóa, chính trị và lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam. Quyết định dời đô của vua Lý Thái Tổ đã chứng minh tầm nhìn xa trông rộng của một bậc minh quân, và cho đến ngày nay, chúng ta vẫn luôn ghi nhớ công lao to lớn ấy.
Vào cuối thế kỷ XIV, đất nước Đại Việt đang rơi vào cảnh loạn lạc và áp bức dưới sự cai trị của triều đại nhà Mạc. Người dân sống trong cảnh nô lệ, nghèo đói, phải chịu nhiều sưu cao thuế nặng, đặc biệt là ở vùng Lam Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa. Chính trong thời gian ấy, một người anh hùng đã dám đứng lên, kêu gọi nhân dân vùng Lam Sơn chống lại kẻ thù và giành lại độc lập cho dân tộc. Người anh hùng đó chính là Lê Lợi.
Lê Lợi là con của một gia đình nông dân nghèo. Từ khi còn nhỏ, ông đã học được nhiều bài học về lòng yêu nước, sự kiên cường và yêu tự do. Nhìn thấy sự bất công và nỗi đau khổ của nhân dân dưới ách cai trị tàn bạo của quân xâm lược, Lê Lợi quyết định gác lại cuộc sống yên bình, đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm.
Vào năm 1418, Lê Lợi tập hợp các nghĩa sĩ, bao gồm những người nông dân, thương binh, học trò và cả các nghĩa quân từ các vùng khác nhau như Lam Sơn, Nghệ An, Thanh Hóa... Tất cả đều đồng lòng lật đổ nhà Mạc để giành lại độc lập cho nước nhà. Nhân dân gọi cuộc khởi nghĩa này là khởi nghĩa Lam Sơn.
Cuộc khởi nghĩa không hề dễ dàng. Quân nhà Mạc mạnh và đông, trong khi quân khởi nghĩa của Lê Lợi lại thiếu thốn về vũ khí và điều kiện. Tuy nhiên, Lê Lợi rất thông minh và kiên trì. Ông không chỉ giỏi chiến lược, mà còn có khả năng lãnh đạo tài ba, biết sử dụng chiến thuật du kích, đánh nhỏ lẻ để tiêu diệt dần quân giặc.
Một trong những câu chuyện nổi tiếng trong cuộc khởi nghĩa là sự kiện Lê Lợi nhận được sự giúp đỡ của thần rùa. Một hôm, Lê Lợi đang chiến đấu ở hồ Động Đình, thì bỗng thấy một rùa vàng nổi lên mặt hồ, trao cho ông một thanh gươm thần. Thanh gươm này giúp Lê Lợi đánh bại quân giặc trong nhiều trận chiến quan trọng. Nhờ vậy, nghĩa quân Lam Sơn dần dần giành được những chiến thắng lớn.
Sau nhiều năm chiến đấu gian khổ, vào năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thành công rực rỡ. Quân nhà Mạc bị đánh bại, và Lê Lợi chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khi nước ta giành lại độc lập và trở lại thời kỳ hòa bình, thịnh vượng.
Lê Lợi là một người anh hùng vĩ đại, người đã chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của dân tộc và xây dựng lại đất nước. Dù trong quá trình chiến đấu, ông phải trải qua không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách, nhưng nhờ lòng kiên định, sự sáng suốt và tinh thần đoàn kết của quân và dân, ông đã thành công trong việc đánh bại kẻ thù.
Lê Lợi đã lập ra nhà Lê, một triều đại mạnh mẽ và kéo dài suốt hơn 300 năm, phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh. Câu chuyện về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không chỉ là một bài học về lòng yêu nước, ý chí kiên cường mà còn là tấm gương sáng ngời về sự đoàn kết trong những lúc khó khăn, thử thách.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và Lê Lợi là một phần không thể thiếu trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta. Nhờ có những người anh hùng như Lê Lợi, đất nước ta mới có thể đứng vững trước bao nhiêu kẻ thù mạnh mẽ, bảo vệ được nền độc lập, tự do cho các thế hệ mai sau.
Ngày 2/9/1945 là một ngày rất quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện này đã mở ra một trang sử mới cho đất nước ta.
Sáng hôm ấy, hàng chục vạn người dân từ khắp nơi đã đổ về Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội. Ai cũng mong chờ giây phút thiêng liêng khi Bác Hồ tuyên bố nước Việt Nam đã giành được độc lập. Cả quảng trường rực rỡ màu đỏ của cờ Tổ quốc. Những tiếng hô vang “Độc lập! Độc lập!” vang lên khắp nơi.
Trên lễ đài, Bác Hồ mặc bộ quần áo kaki giản dị, mái tóc bạc, đôi mắt sáng đầy cương nghị. Bác chậm rãi bước lên, nhìn xuống đồng bào đang hướng về mình với niềm tin yêu.
Trong không khí trang nghiêm, Bác Hồ cất giọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Giọng nói của Bác trầm ấm, rõ ràng, thể hiện quyết tâm của dân tộc. Người khẳng định rằng nước Việt Nam là của người Việt Nam, không ai có quyền xâm chiếm hay cai trị nữa.
Bác nói: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.”
Mọi người lắng nghe trong xúc động. Khi Bác đọc xong, cả quảng trường vang lên tiếng vỗ tay như sấm. Những tiếng hô “Việt Nam độc lập muôn năm!” vang trời. Ai cũng cảm thấy tự hào và hạnh phúc vì từ nay, dân tộc Việt Nam đã có chủ quyền, không còn là thuộc địa của thực dân Pháp nữa.
Sự kiện Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước. Việt Nam từ một nước thuộc địa đã trở thành một quốc gia tự do. Từ đây, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.”
Mọi người lắng nghe trong xúc động. Khi Bác đọc xong, cả quảng trường vang lên tiếng vỗ tay như sấm. Những tiếng hô “Việt Nam độc lập muôn năm!” vang trời. Ai cũng cảm thấy tự hào và hạnh phúc vì từ nay, dân tộc Việt Nam đã có chủ quyền, không còn là thuộc địa của thực dân Pháp nữa.
Sự kiện Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước. Việt Nam từ một nước thuộc địa đã trở thành một quốc gia tự do. Từ đây, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước.
Vào năm 1954, thực dân Pháp muốn chiếm đóng Điện Biên Phủ, một vùng đất quan trọng ở miền Bắc nước ta. Chúng xây dựng nơi đây thành một căn cứ quân sự rất vững chắc, có nhiều súng, đạn và lính đóng quân. Chúng tin rằng không ai có thể đánh bại được chúng. Nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lãnh đạo quân đội ta chiến đấu và giành chiến thắng vang dội.
Lúc đầu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp định đánh nhanh, tiêu diệt quân Pháp trong vài ngày. Nhưng sau khi suy nghĩ cẩn thận, ông quyết định đổi sang cách đánh chắc chắn, từng bước một để bảo vệ an toàn cho quân ta. Quân đội ta đã vượt núi, kéo pháo, đào những con đường nhỏ để tiến sát cứ điểm của địch.
Ngày 13/3/1954, quân ta bắt đầu tấn công. Những trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, từng ngọn đồi, từng vị trí quân Pháp chiếm đóng đều bị quân ta tấn công mạnh mẽ. Sau gần hai tháng chiến đấu, quân Pháp ngày càng yếu dần vì không được tiếp tế.
Đến ngày 7/5/1954, quân ta tổng tấn công, đánh vào hầm chỉ huy của địch. Tướng De Castries của quân Pháp phải đầu hàng. Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” tung bay trên hầm chỉ huy của quân địch, đánh dấu chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt sự xâm lược của thực dân Pháp. Nhờ chiến công này, nước ta giành lại được độc lập, quân Pháp phải rút lui. Chiến thắng này được cả thế giới ca ngợi.
Trận Điện Biên Phủ là một chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nó cho thấy tinh thần kiên cường, đoàn kết của nhân dân ta. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng tài giỏi, lãnh đạo quân đội ta giành chiến thắng. Câu chuyện về trận Điện Biên Phủ sẽ mãi mãi được ghi nhớ trong lịch sử nước ta.
Đọc các câu dưới đây và trả lời câu hỏi:
Cầu Vĩnh Tuy là một trong nhiều cây cầu bắc qua sông Hồng (trên địa bàn Hà Nội). Vào thời điểm hoàn thành (năm 2010), đây là cây cầu lớn và hiện đại nhất được người Việt Nam thực hiện ở tất cả các khâu trong xây dựng.
Phan Anh
a, Cầu Vĩnh Tuy thuộc địa bàn thành phố nào?
b, Cầu Vĩnh Tuy được hoàn thành khi nào?
Đề bài: Em hãy đóng vai một nhân vật trong Chuyện của loài chim, viết đoạn văn kể về một công trình xây dựng.
Đề bài: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về những thay đổi của xã Ea Lâm.
a, Vì sao bồ chao tưởng rằng mình đã thấy hai cái trụ chống trời?
b, Vì sao các loài chim ngạc nhiên trước những điều mắt thấy, tai nghe?
c, Nếu là một nhân vật trong câu chuyện, em sẽ nói điều gì để bày tỏ cảm nghĩ của mình trước những điều mắt thấy, tai nghe?
Dựa vào ghi chú dưới ảnh, viết vào vở một câu giới thiệu hầm Hải Vân, trong câu có sử dụng dấu ngoặc đơn để đánh dấu phần chú thích.
Tìm đọc thêm ở nhà:
- 2 câu chuyện (hoặc 1 câu chuyện, 1 bài thơ) về người lao động hoặc các kết quả trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta.
- 1 bài văn (báo cáo) miêu tả hoặc cung cấp thông tin về con vật.
Đề bài: Viết mở bài cho bài văn tả con vật mà em đã lập dàn ý:
a, Một đoạn mở bài trực tiếp.
b, Một đoạn mở bài gián tiếp.
Cần bổ sung dấu gạch ngang vào những vị trí nào trong các câu dưới đây? Mỗi dấu gạch ngang đó được dùng để làm gì?
a, Ngày 24-10-2018, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã tổ chức họp báo thông tin về Chương trình Giao lưu hữu nghị biên giới Việt Nam Lào Cam-pu-chia lần thứ nhất, năm 2018.
Theo báo daidoanket.vn
b, Trong kho tàng chuyện cổ các dân tộc thiểu số miền núi Quảng Ngãi có không ít những câu chuyện về tình ruột thịt anh em Kinh Thượng.
Theo sách Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX
c, Vùng quế Trà My Trà Bồng ( Quảng Nam Quảng Ngãi) là một trong bốn vùng trồng quế có diện tích lớn và lâu đời ở Việt Nam.
Theo báo Quảng Ngãi
Cần đặt dấu ngoặc đơn vào những vị trí nào trong câu sau:
Sau hơn 30 năm đổi mới, kể từ năm 1986, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, trong đó có những công trình xây dựng ghi dấu ấn đậm nét: Nhà Quốc Hội ( Hà Nội), cầu quay sông Hàn cây cầu đầu tiên do kĩ sư và công nhân Việt Nam tự thiết kế và thi công, đường hầm sông Sài Gòn còn gọi là hầm Thủ Thiêm...
Theo báo vov.vn
Tìm và nêu tác dụng của dấu gạch ngang trong các câu dưới đây:
a, Cầu truyền hình đặc biệt " Hạ Long thần tiên" nhằm tôn vinh giá trị của Vịnh Hạ Long được truyền hình trực tiếp từ 20 giờ đến 22 giờ ngày 29-10-2011 với bốn điểm cầu: Hạ Nội - Hạ Long - Huế -Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Quang Thọ
b, Công ty cổ phần Vận tải đường sắt Sài Gòn tổ chức thêm một số chuyến tàu vào dịp lễ Quốc khánh năm 2022. Sau đây là các tuyến đường có chuyến tàu tăng thêm:
+ Tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Hà Nội.
+ Tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Quy Nhơn.
+ Tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang.
+ Tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Phan Thiết.
Theo báo hanoimoi.com.vn
Em cảm nhận như thế nào về " người giàn khoan" qua các từ ngữ, hình ảnh ở khổ thơ thứ 2?
* Nội dung chính Đoàn thuyền đánh cá: Đoạn trích “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của ngư dân làng chài ven biển, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước.
Đoàn thuyền đánh cá (Trích)
Mặt Trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc Biển Đông lặng
Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Huy Cận
Qua khổ thơ 1, em hiểu đoàn thuyền đánh cá ra khơi vào lúc nào?