Giải SGK HĐTN lớp 6 Bài 4 (Kết nối tri thức): Truyền thống quê em

2.8 K

Lời giải bài tập Hoạt động trải nghiệm lớp 6 Bài 4: Truyền thống quê em sách Kết nối tri thức hay, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời câu hỏi và làm bài tập môn HĐTN lớp 6.

Giải bài tập HĐTN lớp 6 Bài 4: Truyền thống quê em

Hoạt động 1: Chia sẻ những hiểu biết về truyền thống của địa phương

Câu hỏi trang 35 SGK HĐTN lớp 6: Địa phương em có những truyền thống nào?

Trả lời:

Địa phương em có truyền thống: ném còn, đua thuyền, trọi trâu,...

Câu hỏi trang 35 SGK HĐTN lớp 6: Em đã góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống quê hương như thế nào?

Trả lời:

Em đã góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống quê hương: Tham gia có văn hóa, ng hộ chương trình và đóng góp công sức của mình vào đó.

Hoạt động 2: Tìm hiểu và giới thiệu về lễ hội hoặc phong tục tốt đẹp của quê em

Câu hỏi trang 35 SGK HĐTN lớp 6: Tập làm phóng viên phỏng vấn thầy cô, bạn bè để thu thập thông tin về một lễ hội hoặc phong tục ở quê em.

Gợi ý: phiếu thu thập thông tin về lễ hội truyền thống.

Bài 4: Truyền thống quê em

Trả lời:

Phiếu thu thập thông tin

- Tên lễ hội: Ném còn ( Tung Còn)

- Lễ hội được tổ chức vào dịp Tết nguyên đán – khoảng mùng 10 tháng Giêng

- Lễ hội gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội

- Ý nghĩa: Lễ hội như một lời cầu nguyện mong rằng sẽ có một năm mới tràn đầy niềm vui, những điều may mắn và an lành.

- Điều khiến tôi ấn tượng là lễ hội rất vui và thật nhiều ý nghĩa 

- Mong rằng lễ hội sẽ bố trí thêm những chỗ nghỉ ngơi, uống nước cho người dân khi đi tham gia lễ hội.

Câu hỏi trang 36 SGK HĐTN lớp 6: Viết bài giới thiệu về lễ hội hoặc phong tục tốt đẹp của quê em.

- Em cùng các bạn trong nhóm viết bài giới thiệu về 1 lễ hội hoặc phong tục tốt đẹp của quê hương và nêu những việc em có thể làm để bảo tồn, phát huy lễ hội hoặc phong tục đó.

Trả lời:

Bài viết tham khảo – giới thiệu lễ hội đấu vật

Đấu vật vốn là một trò vui rất phổ biến trong các lễ hội đầu xuân ở quê tôi. Sân đấu thường là những bãi đất rộng, bằng phẳng, có thể là sân đình làng. Trên đó người ta trải một tấm bạt lớn có vẽ hai vòng tròn đồng tâm, một to một nhỏ để làm ranh giới thi đấu. Người tham gia đấu vật thường là những người đàn ông trai tráng to lớn, có sức vóc đến từ các làng xã, khác nhau. Vào ngày diễn ra hội thi cả làng đông vui lắm, già trẻ lớn bé, ai cũng gác lại hết công việc dắt nhau ra đình làng xem vật, quây kín cả sân đấu. Các đô vật cởi trần, chỉ mặc mỗi một chiếc quần đùi ngắn, có màu sắc khác nhau để phân biệt. Khi trọng tài ra hiệu bắt đầu trận vật, hai đô vật cơ bắp lực lưỡng lập tức lao vào, ra sức vật ngã đối phương trong tiếng hò hét cổ vũ của người xem. Trên sân lúc này, hai đô vật không ai nhường ai. Người nào người nấy, mắt long sòng sọc, hàm nghiến chặt, mồ hôi đổ như suối, tay nắm lấy thắt lưng đối phương giằng co trên sân. Sau mười lăm phút thi đấu, cuối cùng cũng nghe thấy tiếng còi của trọng tài, một đô vật đã xuất sắc quật ngã đối phương để tiến vào vòng tiếp theo. Người đi xem hét vang trời, không khí rộn ràng với tiếng trống, tiếng vỗ tay, tiếng huýt sáo, ôi, vui thật là vui. Buổi đấu vật còn diễn ra cho tới hết buổi chiều mới kết thúc, trận nào cũng vô cùng gay cấn và hấp dẫn. Em hy vọng rằng, vào những mùa xuân sau nữa hội thi đấu vật vẫn sẽ tiếp tục được tổ chức, vì đã thể hiện được tinh thần thượng võ của dân tộc ta.

Bài 4: Truyền thống quê em

Từ khóa :
Giải bài tập
Đánh giá

0

0 đánh giá