TOP 23 bài Thuyết minh về cây dừa 2023 SIÊU HAY

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Thuyết minh về cây dừa hay nhất, gồm 46 trang trong đó có dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và 23 bài văn mẫu phân tích hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

THUYẾT MINH VỀ CÂY DỪA

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 1

Dừa là một loại cây trồng phổ biến ở các vùng quê khắp cả đất nước, đặc biệt tập trung nhiều ở các miền ven biển nước ta. Cây dừa đóng góp rất nhiều lợi ích vào trong đời sống của con người, trở thành cây trồng quen thuộc, hữu ích và kinh tế cao.

Dừa có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á, sau đó trở nên phổ biến khắp thế giới nhờ những dòng chảy của biển mang quả dừa khô đi đến mọi nơi. nhờ khả năng chịu hạn, sức sống bền bỉ, giúp cây dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Thậm chí, tại các vùng núi cao, cây dừa vẫn phát triển tốt.

Dừa là một loài cây trong họ Cau, thuộc loại cây lớn, thân đơn trục, có thể cao tới 30m, với các lá đơn xẻ thùy lông chim một lần, cuống và gân chính dài 4 – 6 m, các thùy với gân cấp hai có thể dài 60 – 90cm; lá kèm thường biến thành bẹ dạng lưới ôm lấy thân; các lá già khi rụng để lại vết sẹo trên thân.

Ở nước ta, cây dừa phát triển rất phong phú. Căn cứ vào hình thức bên ngoài hoặc đặc trong bên trong quả, hoặc vùng miền phát triển, người ta phân dừa thành nhiều loại: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp. Các giống dừa trồng phổ biến ở địa phương có dừa ta, dừa dâu, dừa lửa, dừa xiêm, dừa cỏ, dừa Tam Quan, dừa lùn.

Hoa của dừa là loại tạp tính (có cả hoa đực lẫn hoa cái và hoa lưỡng tính), với cả hoa đực và hoa cái trên cùng một cụm hoa. Dừa ra hoa liên tục với hoa cái tạo ra hạt. Dừa là loại quả khô đơn độc được biết đến như là quả hạch có xơ. vỏ quả ngoài thường cứng, nhẵn, nổi rõ 3 gờ, lớp vỏ quả giữa là các sợi xơ gọi là xơ dừa và bên trong nó là lớp vỏ quả trong hay gáo dừa hoặc sọ dừa, lớp vỏ quả trong hóa gỗ, khá cứng, có ba lỗ mầm có thể nhìn thấy rất rõ từ phía mặt ngoài khi bóc hết lớp vỏ ngoài và vỏ giữa (gọi là các mắt dừa). Thông qua một trong các lỗ này thì rễ mầm sẽ thò ra khi phôi nảy mầm. Bám vào thành phía trong của lớp vỏ quả trong là vỏ ngoài của hạt với nội nhũ dạng anbumin dày, là lớp cùi thịt, gọi là cùi dừa, nó có màu trắng và là phần ăn được của hạt.

Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Tất cả các phần của quả dừa và cây dừa đều có thể được sử dụng. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sông lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng.

Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mĩ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí, vừa thanh nhã vừa lạ mắt.

Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mĩ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào,… rất thích hợp với người ăn chay. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa.

Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mĩ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Các sản phẩm của dừa còn được làm thuốc chữa bệnh, đồ mĩ nghệ và các vật dụng đồ đạc hết sức tiện lợi và bền bỉ. Tại một số nước, trái dừa còn là vật phẩm dâng lên các vị thần trong những ngày lễ quan trọng. Cây dừa, quả dừa và tên gọi của nó là là biểu trưng cho sự tinh khiết, sức sống bền bỉ, có ý nghĩa biểu thị cho sự an lành.

Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường (750 – 2.000 mm hàng năm), điều này giúp dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Dừa cần độ ẩm cao đế có thể phát triển một cách tối ưu nhất, điều này lí giải tại sao nó rất ít khi được tìm thấy trong các khu vực có độ ẩm thấp (ví dụ khu vực Địa Trung Hải), thậm chí cả khi các khu vực này có nhiệt độ đủ cao.

Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn. Khi quả còn non thì lớp vỏ rất cứng, nhưng quả dừa non hiếm khi rụng, ngoại trừ khi bị bệnh như nấm chẳng hạn hoặc do chuột, dơi,… phá hoại. Trong thời gian quả rụng tự nhiên, lớp vỏ trở thành màu nâu và xơ dừa trở nên mềm và khô hơn, như thê quả sẽ ít bị hư hại khi rụng.

Dừa được trồng nhiều ở nhiều nơi từ Bắc chí Nam, nhất là các vùng duyên hải. Cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta. Có thể thấy điều này qua các bức tranh dân gian Đông Hồ hoặc các lễ hội hái dừa ở vùng đồng bằng tư Nam Bộ. Trái dừa luôn có mặt trong mâm ngũ quả thờ cúng trong ngày Tết cổ truyền.

Từ bao đời nay, cây dừa vẫn bền bỉ, kiên trung với đất, với người, dâng cho cuộc sống biết bao hoa thơm trái ngọt. Cây dừa là biểu tượng của sức sống phi thường, lòng quả cảm, đức hi sinh mà con người Việt Nam đời đời gắn bó, trân trọng và biết ơn.

Sơ đồ tư duy

Thuyết minh về cây dừa quê em

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

“Kìa vườn dừa cây cao cây thấp.
Gió quặt quà cành lá xác xơ.
Thương anh em vẫn đợi chờ”

- Không biết từ bao giờ mà cây dừa đã đi vào thơ ca rất đỗi thân thuộc và trìu mến, cây dừa là một loại cây rất quen thuộc và ý nghĩa đối với cuộc sống của người dân.

- Cây dừa gắn bó thủy chung son sắt với con người.

II. Thân bài

1. Nơi phân bố

  • Trên thế giới: Dừa thường phân bố ở vùng châu Á, Thái Bình Dương.
  • Ở Việt Nam: Dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.

2. Đặc điểm

a. Cấu tạo

  • Thân dừa: Cây dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân.
  • Lá: Lá dài, xanh và có nhiều tàu.
  • Hoa: Trắng và nhỏ.
  • Quả: Phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày, bên trong có cùi và nước.
  • Buồng dừa: Chứa các quả dừa, mỗi buồng thường có khoảng mười lăm quả.

b. Khả năng sinh sống

  • Thường sống ở khí hậu nhiệt đới.
  • Phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt.
  • Dừa cần độ ẩm cao (70 - 80%) để có thể phát triển một cách tối ưu.
  • Phát triển trong khu vực khô cằn.

3. Phân loại

  • Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống.
  • Dừa bị: Trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm.
  • Dừa nếp: Trái vàng xanh mơn mởn.
  • Dừa lửa: Lá đỏ, quả vàng hồng.
  • Dừa dâu: Trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ.
  • Dừa dứa: Trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm mùi dứa nên gọi là dừa dứa.
  • Dừa sáp: Cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu Kè (Trà Vinh).

4. Công dụng

  • Nước dừa: Thường được dùng làm nước uống, kho cá, nước chấm…
  • Cơm dừa: làm kẹo, mứt hay làm nước cốt dừa...
  • Dầu dừa: nấu ăn, dưỡng tóc, dưỡng da…
  • Xơ dừa: dùng làm dây thừng...
  • Thân dừa: làm cột nhà, làm cầu bắt qua sông…
  • Hoa dừa: dùng để trang trí...
  • Gáo dừa: dùng để nấu ăn hay vật dụng trong gia đình….
  • Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ.
  • Làm đồ thủ công mỹ nghệ.
  • Dừa có thể một số bệnh như: Khản tiếng, lỵ, giải độc….

5. Ý nghĩa của cây dừa

  • Trong đời sống
  • Trong nghệ thuật: văn học, âm nhạc…

III. Kết bài

Dừa là một người bạn rất hữu ích với người dân quê Việt Nam. Dừa rất có ích cho cuộc sống và tinh thần của người dân.

Các bài mẫu khác:

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 2

Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa lủng lẳng- con nằm trên cao

Nhắc đến loài cây ấy, tôi cứ mãi nhẩm đi nhẩm lại mấy câu thơ đã học thuộc lòng từ ngày thơ bé. Bạn hãy cùng tôi tìm hiểu về cây dừa nhé.

Nguồn gốc của cây Dừa này không ai rõ, các nhà khoa học chưa xác định đúng chính xác. Trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Các mẫu hóa thạch tìm thấy ở New Zealand cho chúng ta nhận thấy rằng các loại thực vật nhỏ tương tự như cây dừa đã mọc ở khu vực này từ khoảng 15 triệu năm trước. Có nhiều hóa thạch có niên đại sớm hơn cũng đã được phát hiện tại Rajasthan và Maharashtra, Ấn Độ.

Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng.Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp,… Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tuỳ theo nhu cầu người dùng.

Về cấu tạo, dừa gồm có thân, lá, hoa, quả, buồng dừa và quả dừa. Thân dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân.Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu,khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có buồng lại có hơn 15 trái.

Dừa có nhiều công dụng đối với đời sống của con người. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào… rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kì lạ của nhiều nước có trồng dừa.

Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết thương.Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ.

“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”
(Dừa ơi)

Để trồng được một cây dừa phát triển nhanh, cho ra nhiều trái cần người trồng phải có sự chăm sóc cẩn thận trong giai đoạn đầu và giai đoạn cây ra hoa. Lúc này cần chăm bón đầy đủ, theo dõi tình hình cây thường xuyên. Khi mang mầm cây về, người trồng phải chọn nơi thoáng đãng, chuẩn bị đất tơi có cát trộn lẫn để tạo cho cây môi trường sống tốt nhất, thuận lợi nhất cho sự phát triển của nó. Khi thu hoạch cần chú ý với chăm bón tốt để thêm chất dinh dưỡng cho cây. Như vậy mới mong luôn có những trái dừa ngọt mát.

Cây dừa ngày nay vẫn là một trong những nét đặc trưng của các vùng quê miền Tây ven biển. Bờ biển trong xanh cùng hàng dừa sai trái là hình ảnh làm nên thương hiệu cho biển nước ta. Cây dừa sẽ mài theo con người trong cuộc sống tương lai.

Lạ mà hay: Làm

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 3

“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn đó, là con gái của Bến Tre”. Câu hát ngân nga mang đậm hồn quê gợi nhớ về vùng đất Bến Tre, quê hương của đồng khởi. Nhắc đến Bến Tre, người ta liên tưởng đến một vùng quê thanh bình với cây lành trái ngọt. Đặc biệt, có một loài cây gắn bó quanh năm, gắn bó cả cuộc đời với người dân Bến Tre - cây dừa.

Đi khắp Bến Tre, nơi đâu ta cũng gặp bóng râm của những hàng dừa mát rượi. Hầu như nhà nào cũng trồng dừa. Cây dừa từ lâu đã trở thành biểu tượng ở Bến Tre. Nó cũng như cây chè của Bảo Lộc, Thái Nguyên, cây cà phê ở Buôn Mê Thuột hay cây cọ ở vùng quê sông Thao.

Khác với cây dừa ở các tỉnh khác được mọc ở vùng đồng bằng, dọc bờ biển hay ven những triền cát trắng, cây dừa Bến Tre mọc dài trên ba cù lao lớn, cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Vì vậy, cây dừa Bến Tre quanh năm được phù sa của các nhánh sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai, Cổ Chiên bồi đắp nên lúc nào cũng xanh tươi đầy sức sống.

Cây dừa Bến Tre có rất nhiều chủng loại. Dừa ta hay còn gọi là dừa bị trái to, cơm dày, dừa xiêm trái nhỏ nước ngọt và thanh, dừa lửa có vỏ bên ngoài vàng cháy, dừa dâu trái thon nhỏ dần ở hai đầu như hình dáng quả dâu. Ngoài ra còn có một số loại khác như: Dừa Tam Quan, dừa cỏ, dừa dứa, dừa éo riêng dừa sáp chỉ mọc được ở Trà Vinh và trở thành đặc sản của vùng đất này.

Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là một loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sống lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng. Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa thanh nhã vừa lạ mắt. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào... rất thích hợp với người ăn chay. Tuy nhiên, món này không phải lúc nào cũng có vì mỗi khi đốn một cây dừa, người ta mới lấy được củ hủ để dùng. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng ở các quán ăn trong thành phố.

Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Ngày xưa, trong chiến trận, thiếu các phương tiện y tế, người ta còn dùng nước dừa thay thế cho dịch truyền. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Hiện nay, các mặt hàng làm từ cây dừa không chỉ phát triển trong nước mà còn được mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Kẹo dừa Bến Tre được xuất khẩu nhiều nhất qua trung Quốc.

Đi về Bến Tre, chỉ cần qua khỏi phà Rạch Miễu ta sẽ đi giữa bạt ngàn màu xanh của dừa. Những buổi trưa oi bức, chỉ cần mắc võng học bài dưới gốc dừa, bên cạnh bờ ao, hoặc đưa mắt nhìn bầu trời xanh đung đưa qua kẽ lá, nghe tiếng cá nhảy, đớp mồi dưới ao chúng ta bỗng thấy cuộc đời đẹp biết bao. Cuộc sống của người dân Bến Tre gắn liền với cây dừa từ bao đời nay. Ngôi nhà của họ cũng ẩn hiện dưới bóng râm mát rượi của hàng dừa, lúc khát nước uống trái dừa ngọt lịm… Không biết đã có bao nhà thơ đã dệt nên những vần thơ đẹp về cây dừa ở Bến Tre. Cây dừa cũng xuất hiện khá nhiều trong thơ ca, trở thành biểu tượng của miền Tây sông nước:

“Khi yêu yêu lắm dừa ơi
Cả trời cả đất cả người Bến Tre
Bóng dừa râm mát lối quê
Người ơi! Tôi tưởng lối về cung tiên…”​

Trong tương lai, cuộc sống ngày một hiện đại hơn. Nhưng những giá trị tinh thần vẫn không bao giờ thay đổi. Cũng như vậy, cây dừa sẽ mãi gắn bó với người dân Bến Tre như những hạt phù sa mãi mãi gắn liền với các con sông để ngày bồi đắp cho mảnh đất quê hương thêm màu mỡ.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 4

“Dừa xanh đứng sừng sững giữa trời
Đem thân mình hiến cho đời thủy chung”

Cây dừa cứ thế tự nhiên đi vào thơ ca văn chương. Dừa xanh đã trở thành loài cây quen thuộc, gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền trong.

Nguồn gốc của cây dừa này không ai rõ, nhưng một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc từ Đông Nam Châu Á và cũng có người cho rằng chúng có nguồn gốc từ miền tây bắc Nam Mỹ. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và mưa. Vì vậy chúng đã trở thành người dân định cư không thể thiếu trên những bờ biển vùng nhiệt đới. Chúng gần như không thể sống được ở những vùng có nhiệt độ khắc nghiệt như Địa Trung Hải. Ở Việt Nam dừa xuất hiện nhiều ở các tỉnh miền Trung như Bến Tre, Cà Mau, Bình Định.

Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ mười đến mười lăm trái dừa, có buồng lại có hơn mười lăm trái.

Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng. Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp. Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tùy theo nhu cầu người dùng.

Dừa có nhiều công dụng. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông dừa thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kỳ lạ của nhiều nước có trồng dừa.

Tuy nhiên kết tinh đẹp nhất của cây dừa với tất cả những gì tinh túy lại là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết thương. Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Ngoài ra cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ.

“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ? ”

(Dừa ơi)

Hay:

“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió
Có phải người còn đó là con gái của Bến Tre…”

(Dáng đứng Bến Tre)

Trải dài khắp dải đất miền Trung của Việt Nam, những hàng dừa xanh vẫn đứng rì rào trong gió. Cây dừa không chỉ quen thuộc với cuộc sống con người Việt Nam mà còn trở thành một phần kinh tế của những con người nơi đây.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 5

Nghe tiếng gió rì rào cùng sóng biển, nghe tiếng xào xạc bên bờ. Kìa những cây dừa xếp hàng dài trên bãi cát trắng. Một loài cây đã quá quen thuộc và trở thành hình ảnh gần gũi xuất hiện trong những bức tranh miền biển

Dừa là một loại cây đã xuất hiện từ lâu. Nguồn gốc của cây dừa bắt nguồn từ đâu vẫn còn là một điều gây nên tranh cãi. Dừa là cây có thân cao khỏe màu xanh sẫm hoặc ngả nâu thẫm , ước chừng chiều cao của thân cây là 20 mét đến 25 mét, thân dừa có những nốt vằn đặc trưng, đường kính của cây khoảng 45 cm đến 50 cm. Lá cây dừa dài, to có màu xanh tươi và có nhiều tàu xòe ra, khi già lá dừa sẽ ngả vàng và có màu nâu. Hoa dừa nhỏ xíu màu trắng muốt mọc từng chùm, từng chùm nổi bật. Quả dừa mọc ra từ hoa, quả hình tròn, có màu xanh vỏ cứng và dày, bên trong có cùi dừa trắng thơm ngậy và nước dừa màu trắng đục. Nước dừa thường được lấy uống để giải khát trong mùa hè. Thường những quả dừa không đơn độc, chúng mọc thành buồng, một buồng có từ 10 đến 15 quả.

Những cây dừa thường sinh sống ở những nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển ở những vùng đất khô cắn, có đất pha cát. Trái nước với nơi sinh sống thiếu nước thì dừa có một sức sống mãnh liệt và chống chịu cao. Vì thế chúng hay được trồng ở các nơi ven biển vừa đẹp, vừa chống lại được bão gió. Dừa được phân bố ở khu vực Châu á và Thái Bình Dương trên thế giới và được trồng từ Quảng Ngãi rải rác khắp nơi đến tận Mũi Cà Mau, đặc biệt được trồng nhiều ở Bình Định và Bến Tre trên mảnh đất Việt Nam.

Dừa cũng như bao cây khác, chúng được phân ra nhiều loại: dừa xiêm,dừa bị, dừa lửa, dừa sáp, dừa nếp, dừa dâu. Tất cả loại dừa đều có công dụng khác nhau như những quả dừa xiêm dù trái nhỏ nhưng nước rất ngọt thường được bổ ra và uống. Dừa bị trái to, cùi dày thường được dùng để chế biến thực phẩm. Ngoài ra những dừa còn được dùng trong nhiều việc như kho cá, kho thịt. Cùi dừa được nạo ra làm kẹo hay mứt, hoặc xay nhuyễn, thái sợi để nấu xôi. Dầu dừa được dùng làm dầu ăn hoặc để làm đẹp cho các chị em phụ nữ, xơ dừa được dùng để làm dây thừng, còn những thân dừa cao to thường dùng để dựng cột nhà hoặc làm chiếc cầu nhỏ bắc qua kênh rạch.

Như vậy cây dừa được trồng không chỉ làm đẹp cho cuộc sống con người mà nó còn mang lại nhiều lợi ích cả về mặt kinh tế. Loài cây xanh tươi ấy gắn bó với người dân như một người bạn thân thiết từ bao đời.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 6

Nhắc đến Việt Nam là người ta nhớ ngay đến một quốc gia với muôn ngàn hoa trái. Trong rất nhiều những loài cây có giá trị từ Bắc xuống Nam dọc đất nước, có một loài cây thẳng, giản dị, một loài cây quen thuộc với người dân miền biển Việt Nam - cây dừa:

“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: Dừa có tự bao giờ?”

(Dừa ơi)

Dừa được biết đến là một loài cây cùng họ với cây cau. Hiện nay, nguồn gốc chính thức của dừa vẫn chưa được khẳng định chính xác. Một số giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc ở khu vực Đông nam Á, cũng có giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc Nam Mỹ.

Đặc điểm cấu tạo của cây dừa không quá phức tạp, đó là một loài cây thân trụ đứng và cao, mọc thẳng và không phân cành, phân nhánh. Lá dừa trực tiếp mọc ra từ thân chính, gồm hai phần: cuống lá và chét lá. Mỗi tàu dừa có độ dài từ 5 - 6m. Trung bình một cây dừa có khoảng dao động từ 32 - 35 lá. Cây dừa cũng có hoa. Hoa có màu trắng mọc ra từ nách lá, nở thành từng cụm, cả hoa cái và hoa đực đều nằm trên một cụm hoa. Rễ dừa thuộc kiểu rễ chùm, khi dừa mới ra rễ, rễ thường có màu trắng, nhưng trong quá trình sinh trưởng, rễ sẽ có màu nâu, rễ dừa mọc sâu và khỏe. Quả dừa có vỏ cứng, nhẵn và xanh mượt mà, bên trong là một lớp xơ màu hơi nâu, tiếp đến là lớp gáo dừa cứng chắc. Trong cùng là lớp cùi dừa trắng ngần, thơm nhẹ, có màu trắng trong khi quả dừa còn non và chuyển sang trắng đục khi dừa già. Cùi dừa bao chứa nước dừa thanh thanh, ngọt nhẹ.

Dừa là loài cây có khả năng sinh trưởng mạnh mẽ, chịu mặn tốt và phát triển thuận lợi trên đất pha cát, ưa những nơi sinh sống có nhiều ánh sáng với lượng mưa vừa phải. Bởi những đặc điểm sinh trưởng trên nên dừa được trồng nhiều ở những vùng khí hậu nhiệt đới ẩm. Ở nước ta, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện về khí hậu và đất đai thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của dừa. Ngoài ra, dừa còn được canh tác nhiều tại các tỉnh miền Trung và Bến Tre.

Người ta thường phân chia dừa thành hai loại dựa trên đặc điểm sinh cấu tạo và khả năng sinh trưởng. Đó là dừa lùn, đây là giống cây cao khoảng dưới 10m, thời gian kết trái dao động trong khoảng 3 tới 5 năm, dừa trái nhỏ, cùi mỏng. Dừa sức sống kém hơn, dễ bị sâu bệnh. Một số tiểu loại của dừa lùn phổ biến là dừa Tam Quan hay dừa Xiêm. Loại thứ hai chính là dừa cao. Giống dừa cao có chiều cao dao động trên 10m cho tới khoảng 20m, thời gian ra trái muộn hơn giống dừa lùn, trong khoảng từ 5 đến 7 năm. Dừa có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt hơn, dừa trái lớn với cùi dày. Một số loại nhỏ của giống dừa cao là dừa Sáp hay dừa Lửa.

Dừa là loại cây mang giá trị cao đối với đời sống con người. Thân dừa thường được dùng làm đồ gỗ mỹ nghệ hay vật liệu cho các công trình xây dựng: cầu. Lá dừa dùng làm mái che hay một số đồ thủ công như giỏ đan, tranh, chổi dừa khô có thể dùng làm chất đốt. Nước dừa chứa nhiều chất chống oxy hóa và vitamin, dùng làm nước giải khát. Nước cốt dừa có thể dùng làm gia vị trong các món giải nhiệt như chè hay trong một số món ăn: thịt kho. Gáo dừa có thể dùng chế tạo nhạc cụ thủ công hay đơn giản là làm gáo múc nước. Xơ dừa dùng bện dây thừng hay làm thảm, khảm thuyền, cũng có thể dùng làm phân bón. Vỏ dừa có thể được dùng làm than củi. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm hay thuốc sát trùng.

Dường như không chỉ mang giá trị kinh tế, dừa đã thực sự để lại ý nghĩa trong đời sống con người, đặc biệt là người dân Bến Tre. Loài cây ấy đã trở thành một loài cây thân thuộc, một người bạn che chở và hiền lành. Dừa từ rất lâu cũng đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương:

“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao”

(Cây dừa, Trần Đăng Khoa)

Hay như:

“Thân dừa găm vết đạn
Nước ngọt. Bọc cùi thơm
Cái ăn và cái mặc
Treo chung với trái vườn”

(Bóng dừa)

Không chỉ là nguồn cảm hứng cho văn chương, dừa còn là chất liệu cho nhiều bài hát: “Hát về cây dừa quê tôi” (Hoài Thanh) và rất nhiều những bức tranh nghệ thuật.

Dừa là loài cây có sức sống tốt nên kĩ thuật chăm sóc không quá phức tạp, dừa không kén đất, tuy nhiên nên trồng dừa ở những khu vực gần kênh rạch, nên chọn những giống dừa có chiều cao khoảng 0,3 m. Ngoài ra cũng cần chú ý việc bón lót cho cây. Cần che chắn cho dừa trong ba tháng đầu tiên, quan tâm, cung cấp đủ nước cho dừa, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh.

Dừa tồn tại trong tâm thức của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân vùng Bến Tre như một loại cây lành tính và quen thuộc, thân thương như người bạn. Bởi thế, mỗi người cần có ý thức giữ gìn bảo vệ loài cây giàu giá trị ấy.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 7

Ngay từ tiểu học, chúng ta có lẽ ai cũng đã từng ngân nga mấy câu thơ của Trần Đăng Khoa:

“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao”

Những dòng thơ ấy gợi nhắc về một loài cây thơm mát ngọt lành, quanh năm gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Bến Tre - dừa.

Dừa là biểu trưng của Bến Tre, cũng giống như cây chè ở Thái Nguyên hay cây cam - Hà Giang. Đó là loài cây với cấu tạo có phần đặc biệt, cây thân đứng, cao và không có cành. Tàu lá cứ từ thân mà mọc ra, to và dài đến năm sáu mét, tỏa ra xanh mát. Hoa dừa trắng ngần, kết thành từng cụm gắn bó keo sơn, gồm cả hoa đực và hoa cái. Hoa dừa thụ phấn nhờ gió. Quả dừa cứng cáp có ba cạnh, da xanh nhẵn mượt, sọ dừa bên trong được bao bọc bởi một lớp xơ nâu nhạt. Sọ dừa bao lấy cơm dừa và nước dừa. Cơm dừa trắng đục, ăn hơi giòn và ngọt nhẹ, nước dừa trong vắt, thanh thanh dễ chịu. Dừa là loại cây rễ chùm, màu nâu, mọc sâu và khỏe.

Dừa được biết đến với sức sống bền bỉ và mạnh mẽ, nhưng thích hợp nhất để trồng dừa là đất pha cát với khí hậu nóng ẩm. Những vùng ven biển Việt Nam rất thích hợp để trồng loài cây ấy. Không chỉ vậy, bởi đặc tính chịu mặn nên dừa cũng được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Dừa xét theo những đặc điểm sinh trưởng và cấu tạo, có thể chia thành dừa lùn và dừa cao. Tuy nhiên nếu xét về công dụng, có thể chia dừa thành nhóm các giống dừa uống nước: dừa xiêm xanh (nước ngọt thanh), dừa xiêm lục (nước có hàm lượng đường cao..), dừa xiêm lửa, dừa xiêm xanh ruột hồng. Nhóm tiếp theo là giống dừa lấy dầu: dừa ta xanh ta vàng, dừa dâu xanh dâu vàng, dừa dứa hay dừa sáp.

Cây dừa có nhiều công dụng. Phần cơm dừa trắng ngần, bùi ngọt không chỉ có thể dùng để ăn trực tiếp mà còn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp chế biến các sản phẩm bánh mứt: mứt dừa, kẹo dừa, hoặc dùng điều chế mỹ phẩm: son dưỡng, dầu dừa, dầu gội đầu, kem đánh răng vị dừa. Vào trưa hè nắng gắt, ngồi dưới bóng dừa mà thưởng thức hương vị ngọt thanh, mát dịu của nước dừa thì quả là thoải mái vô cùng. Xơ dừa có thể dùng để bện dây thừng, sản xuất một số đồ thủ công còn vỏ dừa có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất phân bón. Gáo dừa thích hợp làm nhạc cụ dân tộc hay làm gáo múc nước. Từ lá dừa, người ta lợp nhà lợp cửa, tàu dừa dùng trang trí cổng hoa trong mỗi ngày vui. Lá dừa phơi khô trở thành đuốc soi đường khi thiếu sáng hay được đan thành những món đồ thủ công giản dị. Thân dừa được dùng làm cầu bắc ngang kênh, làm cột dựng nhà hay chén đũa. Dừa không chỉ có giá trị trong nước mà nhiều sản phẩm từ dừa được dùng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao.

Đến với những miền ven biển, người ta bắt gặp những hàng dừa xanh cao chắn gió. Ngày qua ngày, dừa đối với người dân miền biển, người dân Bến Tre trở thành một người canh gác, một người bạn thủ thỉ tâm giao tâm tình, một đặc trưng riêng:

“Thấy dừa thì nhớ Bến Tre.
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.
Dừa cũng rất tự nhiên mà đi vào thơ ca nhạc họa
Trả ơn ai có cây dừa
Cho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương”

Hoặc là:

“Trên thân dừa vết đạn xác xơ.
Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua”

Dừa cũng được dùng để tạo nên những câu đố cho đám trẻ nông thôn:

“Một mẹ nuôi chín mười con
Không ăn, không uống no tròn vo vo”

(Là cái gì?)

Kỹ thuật chăm sóc dừa không quá phức tạp. Nên chọn trồng dừa tại những vùng đất pha cát, khí hậu nhiệt đới ẩm. Trong quá trình trồng chú ý bón lót, bón thúc, phòng ngừa sâu bệnh thường xuyên để cây có thể sinh trưởng, phát triển tốt.

Cây dừa như người Việt Nam ngay thẳng, cứng cáp và vươn cao, mộc mạc và giản dị nhưng lại mang giá trị vật chất, tinh thần lớn lao. Hiểu vậy để mỗi người thêm yêu quý, trân trọng loài cây ấy.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 8

“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao”

Hình ảnh cây dừa đã đi vào thơ ca nhạc họa một cách rất tự nhiên. Dừa là hình ảnh rất gần gũi và hết sức quen thuộc thân thương và trìu mến, gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta.

Nguồn gốc của loài thực vật này là chủ đề gây tranh cãi, trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền Tây bắc Nam Mỹ. Đến nay dừa đã được trồng phổ biến và xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước. Trên thế giới, dừa thường phân bố ở vùng châu Á, Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre Dừa có rất nhiều loại như dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa sáp. Nhưng nhìn chung các loại dừa đều cơ bản giống nhau và có những lợi ích riêng giúp ích cho cuộc sống con người.

Hầu như loại dừa nào cũng có đặc điểm và cấu tạo như nhau. Thân dừa có hình trụ với những nốt vằn trên thân, cao khỏe, có màu nâu sậm, cao khoảng 20- 30 cm, đường kính rộng khoảng 45 cm. Đối với loại dừa dùng để làm cảnh thì thân thường là màu xanh có nhiều đốt với những tán lá xòe rộng như một cái ô khổng lồ. Lá dừa xanh, rất dài và tán lá rộng. Mỗi một cây dừa đều có nhiều tàu lá. Khi già thì lá chuyển mình thành màu vàng rồi héo dần và rụng. Phải quan sát rất tỉ mỉ thì ta mới nhìn thấy những bông hoa trắng, nhỏ li ti kết thành từng chùm trông thật thích mắt. Cây ra hoa rồi kết thành trái. Quả dừa tròn, nằm trên những tàu lá, kết thành từng chùm như đàn lợn con nằm trên cao. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ năm đến mười trái dừa, có loại trên hai trái. Quả dừa gồm hai phần là phần vỏ và phần nước ở bên trong được ngăn cách nhau bởi lớp cùi trắng. Để lấy nước của quả dừa thì đây là một công đoạn cũng rất khó cần loại bỏ lớp vỏ ngoài và lớp xơ dừa sau đó dùng đũa/que chọc vào mắt lớn nhất của quả rồi đặt ống hút vào. Người ta có thể lấy nước bằng cách chặt bỏ một phần vỏ ở phần đối diện với cuống dừa để phần vỏ cứng bên trong phơi ra vật chứa.

Người ta tìm đến với dừa có rất nhiều những công dụng khác nhau. Mỗi bộ phận của dừa hầu như đều chứa đựng những lợi ích khác nhau. Chúng ta không chỉ biết công dụng của dừa dùng để ăn mà biết đến với rất nhiều công dụng khác. Thân dừa dùng để làm cột chống, hay lá dừa khi già héo và rụng thì người ta phơi khô dùng để đun và cháy rất bén. Bên cạnh đó, thân dừa có thể dùng làm đồ mỹ nghệ hoặc làm vật liệu cho một số công trình xây dựng. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ và nó còn được dùng để đánh răng. Tán lá dừa rộng, xòe to nên có thể dùng để che nắng, che mưa. Xơ dừa dùng làm dây thừng, hoa dừa dùng để trang trí. Phần có tác dụng to lớn là nằm ở quả dừa. Bên trong quả có chứa nước dừa thơm ngon, béo ngậy có thể dùng để uống giúp đẹp da hay dùng để nấu cơm, thổi xôi thêm cùi dừa nạo mỏng thì ta sẽ được đĩa xôi ngon miệng, béo ngậy, giàu chất dinh dưỡng. Người ta còn biết dùng nước dừa đun lại để làm dầu dừa dưỡng da, dưỡng tóc. Cùi dừa dùng để kho thịt, thạch dừa hay dùng để làm kem dừa khi trời nắng nắng oi bức hay dùng là mứt vào mỗi dịp tết. Khi dùng xong bên trong, họ còn dùng gáo dừa để làm vật dụng trong gia đình hay dùng để nấu ăn…

Cây dừa có rất nhiều tác dụng to lớn đối với cuộc sống của con người. Đã từ lâu nó đã trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, dám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 9

“Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ”

Đi vào trong những vần thơ, trong lời ru câu hát, cây dừa đã trở thành một người bạn của người dân Việt Nam. Dừa đã gắn bó với quê hương, với những bờ cát trắng và nắng gió của tổ quốc từ ngàn đời nay với màu lá xanh tươi như thế.

Không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp các châu lục, dừa là một loài cây quen thuộc. Các nghiên cứu khoa học vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chính xác cho nơi bắt đầu của dừa nhưng qua nhiều năm phát triển, dừa giờ đây trở nên rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới như châu Á và vùng ven Thái Bình Dương. Còn ở nước ta, dừa thường tập trung ở các tỉnh miền Trung, nổi tiếng nhất là ở Bến Tre và Bình Định.

Thân dừa rất cao, một số cây có thể cao đến ba mươi mét. Dừa còn sở hữu một thân hình khỏe khoắn với khuôn hình trụ kiên cố, có những nốt vằn trên thân vết sẹo để lại sau khi những bẹ lá già và rụng xuống đất để lại. Dừa càng già thì màu thân càng bạc đi theo năm tháng.

“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu,
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng”

(Cây dừa, Trần Đăng Khoa)

Đúng như nhà thơ đã miêu tả, cây dừa có tán rộng với những lá dài, xanh mướt và nhiều tàu. Thân hình cao lớn, tán lá xanh dày nên những hôm trời nắng. Cây dừa đứng sừng sững như một chiếc ô khổng lồ, dang rộng những cánh lá xanh dài của mình để che bớt đi cái chọi lọi, gay gắt của nắng, đem lại những bóng râm mát cho người dân nghỉ ngơi. Lá dừa có hình dạng như lông chim với một gân chính dài, cứng, từ gân đâm ra những lá đơn. Mỗi lần làn gió thổi qua là những lá đơn lẻ ấy lại va chạm vào nhau, tạo nên những âm thanh xào xạc rất vui tai. Ấy cũng là thú vui của những du khách đi biển, nằm dài trên bờ cát trắng dưới bóng mát của tán dừa, lắng tai nghe bản hòa tấu của tiếng sóng vỗ rì rầm và lá rì rào như đang hát. Dừa cũng có hoa, nhưng hoa dừa lại nhỏ, có màu trắng. Vì kích thước quá nhỏ, lại nằm ở trên cao nên ít khí người ta nói đến hoa dừa. Nhưng hoa dừa lại vô cùng quan trọng. Từ những bông hoa nhỏ ấy, ta mới có những trái dưa thơm nức mùi hương. Quả dừa phát triển từ hoa, lớp vỏ bên ngoài màu xanh, cứng, nhẵn và có ba đường gờ lên rất rõ ràng. Vì thế mà quả dừa không tròn như quả nhãn, quả cam, không có hình bầu dục như xoài mà có một dạng rất riêng và đặc trưng. Dừa là quả hạch có xơ, vỏ dừa được cấu thành từ nhiều lớp xơ dừa chồng lên nhau, khá cứng nên người ta thường gọi là sọ dừa hoặc gáo dừa. Bên trong những lớp xơ đã hóa gỗ ấy là cùi dừa và nước dừa - nguyên liệu nấu ăn đã rất phổ biến. Với dừa non thì cùi thường mỏng và mềm, nên thường được hái để lấy nước. Với những quả già, lớp ngoài chuyển thành màu nâu thì cùi dừa dày, chắc nên được sử dụng để lấy cùi. Để lấy dừa non thì cần phải hái nhưng với dừa già, ta chỉ cần đợi nó rụng xuống và thu hoạch là được. Trái dừa cũng được chia ra nhiều loại như dừa xiêm với trái nhỏ, nước rất ngọt; dừa bị với trái to; dừa lửa với vỏ màu vàng hồng như ánh lửa.

Dừa không chỉ đem lại bóng mát cho người dân vào những ngày hè nóng nực mà còn được mang nhiều giá trị sử dụng khác. Gần như tất cả các bộ phận trên cây dừa đều có thể sử dụng và làm nguyên liệu cho đời sống sinh hoạt. Nước dừa ngoài là một thức uống giải khát thì có thể sử dụng làm các món ăn như cá kho, nước chấm. Cùi dừa vừa có thể ăn trực tiếp lại vừa có thể thêm vào các món như thịt kho dừa, các loại chè để tăng thêm hương vị. Là một người dân Việt Nam, không ai là không biết đến dừa Bến Tre, đặc biệt là kẹo dừa Bến Tre với sắc ngọt lịm và mùi thơm thanh thanh dễ chịu của hương dừa. Hiện nay, con người còn sáng tạo ra dầu dừa - một sản phẩm dùng để làm đẹp khá phổ biến. Với sọ dừa thì có thể làm gáo nước, rễ dừa được sử dụng như một loại thuốc, thân dừa là một cây cầu chắc chắn.

Không chỉ hiện hữu trong đời sống thường nhật, dừa còn đi vào văn học. Trong ca dao như một hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam:

“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu,
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng”

Lê Anh Xuân, một nhà thơ hiện đại cũng có những vần thơ về cây dừa với bài thơ như tiếng gọi thân thương “Dừa ơi”. Dừa còn đi vào trong âm nhạc, trở thành biểu tượng cho một vùng miền của tổ quốc trong “Dáng đứng Bến Tre”.

“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: "Dừa có tự bao giờ?"

Dừa đã gắn bó với tuổi thơ của bao người dân Việt Nam, lớn lên cùng với những lũ trẻ da sạm đi vì nắng gió, che mát cho tâm hồn bao đời người dân đất Việt.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 10

Cây dừa - một loài cây khá phổ biến ở Việt Nam. Đây là loại cây có giá trị lớn về thương mại cũng như ý nghĩa tinh thần đối với nước ta.

Hiện nay, chưa có một tài liệu nghiên cứu nào ghi chép một cách chính xác về nguồn gốc của cây dừa. Nhưng không thể phủ nhận rằng, ngày này cây dừa đã được trồng ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới.

Dừa là một loại cây có thể phát triển tốt ở điều kiện tự nhiên vùng nhiệt đới, đảo và vùng ven biển. Vì vậy, người ta thường trồng dừa ở vùng ven biển khá nhiều. Ở Việt Nam, khu vực trồng nhiều dừa nhất là Bến Tre và Bình Định, ngoài ra còn có trên các đảo lớn nhỏ.

Dừa không có quá nhiều loại. Theo đặc điểm hình thái và mục đích sử dụng, người ta chia dừa thành hai loại: dừa cao và dừa lùn. Dừa giống cao khi trưởng thành cao khoảng 12 - 20m, phát triển nhanh nhưng sau 5 - 7 năm mới cho trái. Quả to, cùi dừa dày và hàm lượng dầu dừa cao. Dễ trồng, chống chịu tốt. Còn dừa giống lùn trưởng thành thường cao dưới 10m, phát triển chậm nhưng khoảng 3 - 5 năm sau đã ra hoa và kết trái. Quả dừa nhỏ, cùi mỏng, nước nhiều chủ yếu dùng làm nước giải khát. Ngoài hai nhóm trên, còn có nhiều giống dừa được lai tạo để phù hợp khí hậu và điều kiện gieo trồng từng vùng.

Về cấu tạo, thân dừa mọc thẳng, hình trụ, cao khỏe, màu nâu sậm. Trên thâm có nhiều nốt vằn nối tiếp nhau. Lá dừa dạng xẻ thùy, tàu lá dài từ 3 - 7m và phân thành nhiều lá nhỏ. Lá mọc chủ yếu ở phần đầu ngọn nên đôi khi nhìn xa, cây dừa như một chiếc ô khổng lồ. Theo thời gian, cây phát triển cao lên, lá ở gốc già rồi rụng dần để lại mắt sẹo ở thân cây. Hoa dừa màu trắng ngà, mọc ra thành dẻ nhỏ từ nách lá. Mỗi giống giữa sẽ ra hoa ở từng thời điểm khác nhau nhưng trung bình là khoảng 30 - 40 tháng sau khi trồng. Hoa đực hoa cái sẽ tự thụ phấn hoặc thụ phấn chéo, kết thành quả. Quả dừa mọc theo chùm, chi chít nhau. Mỗi chùm phải có từ mười đến mười lăm quả. Quả dừa có năm lớp bao bọc lấy nhau. Lớp đầu tiên là lớp vỏ ngoài cùng, cứng và có màu xanh. Phần kế tiếp là lớp xơ, sau đó là lớp gáo dừa, cùi dừa và nước dừa ở trong cùng. Khi dừa còn non thì cùi dừa mỏng, màu trắng trong. Đến khi quả dừa đã phát triển thiện, cùi dừa sẽ chuyển sang màu trắng đục và dày lên lúc dừa già. Lớp xơ sẽ chuyển cứng, hóa gỗ. Rễ dừa là rễ chùm, bám chặt lấy lòng đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Ban đầu còn nhỏ, rễ cây màu trắng lớn lên sẽ chuyển sang màu nâu đỏ.

Dừa có rất nhiều công dụng hữu ích. Mỗi bộ phận đều có một chức năng khác nhau. Thân dùng làm cột chống hoặc chế thành đồ mỹ nghệ và vật liệu trong xây dựng, lá dừa héo khô thì dùng làm chất đốt bảo vệ môi trường. Rễ là nguyên liệu quan trọng để làm các loại thuốc nhuộm, thuốc sát trùng làm sạch miệng hay điều trị bệnh lỵ, đánh răng. Tán lá xòe rộng nên hay được trồng ở các khu nghỉ dưỡng vừa tạo vẻ đẹp thẩm mỹ vừa dùng che nắng. Trong quả dừa lại có nhiều công dụng riêng. Nước dừa có vị thơm ngọt, béo ngậy mà không ngán, vừa giải khát vừa đẹp da. Cùi dừa bào mỏng nấu kèm xôi hay kho thịt sẽ khiến món ăn thêm hấp dẫn. Đặc biệt còn có “thạch dừa” - một món đồ ăn vật vô cùng được yêu thích, nhất là đối với trẻ em. Mỗi dịp Tết, người ta còn cùi dừa nếp trắng non chế thành nhiều loại mứt màu sắc khác nhau, hương vị tự nhiên ngọt thanh rất hấp dẫn. Dầu dừa nấu từ phần cùi còn là loại mỹ phẩm cực an toàn, dùng dưỡng tóc, dưỡng môi vô cùng hiệu quả…

Như vậy, cây dừa là một loại cây hữu ích đối với con người. Dừa cũng gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam từ xa xưa - trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 11

Dừa là loại cây dễ trồng ở nước ta. Xu hướng dùng hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa ngày càng được ưa chuộng trên thế giới. Các sản phẩm từ dừa đang có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, đem nhiều ngoại tệ về cho đất nước.

Dừa được trồng rải rác khắp các làng quê Nam Bộ, nhiều nhất là ở tỉnh Bến Tre, Bình Định. Cây dừa cao khỏe, có màu nâu, hình trụ và có những nốt vằn trên thân. Dừa có nhiều tàu lá, lá dừa khá dài và mỏng. Dừa có hoa màu trắng, nhỏ li ti và không có mùi quá rõ rệt. Quả được phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày, bên trong có cùi dừa và nước dừa. Dừa có rất nhiều loại khác nhau. Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp có trái vàng xanh mơn mởn. Còn dừa lửa sẽ có lá đỏ, quả vàng hồng. Dừa dâu có trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ. Dừa dứa thì có trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm mùi dứa nên gọi là dừa dứa. Cuối cùng là dừa sáp - loại này có cùi dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu Kè (Trà Vinh).

Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của cây dừa rất lớn, đã hình thành cả công nghệ chế biến: ngâm tẩm chống mối, tạo dáng, đánh bóng, phủ lớp nhựa chống thấm lên bề mặt sản phẩm. Xu hướng dùng hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa: Giỏ xách, dĩa, chén, bình, tách, đũa, khay, hộp. Ở các nước phương Tây ngày càng được ưa chuộng. Từ dừa có thể làm vô vàn thứ: cọng dừa tước bỏ lá, đan giỏ xách, làm chổi; gáo dừa làm than hoạt tính, làm chén, dĩa, tô, thân dừa lão làm đũa, làm cột nhà, vỏ dừa làm dây buộc. Mùa nắng nước dừa là một thứ giải khát tuyệt chiêu vừa sạch vừa bổ. Cùi dừa già làm nguyên liệu chế biến các món ăn và thức uống, nấu dầu dừa và chế biến xà phòng. Nước ta thường chế biến dừa ra nhiều sản phẩm như: bánh dừa, kẹo dừa, các loại mứt dừa và còn nhiều món ăn truyền thống dân tộc chế biến từ dừa: bánh tét, chuối nướng.

Đặc biệt, nước dừa được tạo thành sản phẩm thông qua quy trình công nghệ sinh học. Nước dừa nuôi nấm men Saccharomyces tạo ra prô-tê-in đơn bào bổ sung nguồn đạm thực vật dùng cho người. Giấm ăn hoặc các sản phẩm nước uống lên men từ nước dừa như nước giải khát đóng chai, nước dừa có ga. Nước dừa còn chế biến thành rượu có hương vị đặc trưng. Nước cốt dừa tạo sữa dừa đóng hộp, sản phẩm chiết từ cơm dừa nạo chế biến sữa đặc có đường. Gần đây các nhà khoa học còn dùng vi khuẩn tạo ra thạch dừa. Thạch dừa là đặc sản ăn vừa dai, vừa giòn, góp phần tăng cường các chất xơ giúp cơ thể bài tiết, kích thích tiêu hóa, gây cảm giác khoái khẩu.

Doanh nghiệp Trường Ngân ở Bến Tre đã thành công trong việc tìm được thị trường riêng cho sản phẩm của mình bằng hàng trăm mặt hàng gia dụng như: Giỏ xách đi chợ, giỏ đựng hoa (lẵng hoa) và đựng quà cáp, rổ rá, bình hoa, cùng nhiều chủng loại: tách, chén, dĩa, khay trà và đồ dùng trang trí nội thất khác như: voi khỉ, ngựa, gà, và các tranh treo tường.

Như vậy, dừa là một loại cây vô cùng hữu ích đối với con người. Cây dừa cũng đã trở thành một nét đẹp biểu tượng của miền Tây sông nước.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 12

Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành biểu tượng của làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre.

Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa. Có hai loại dừa: dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được trồng chủ yếu để lấy quả được phân ra thành các loại dừa như: dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp.

Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao khoảng 20 - 25m, trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng bốn mươi cm. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm.

Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ năm đến mười trái dừa, có loại trên hai mươi trái.

Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc nên người ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất đẹp mắt. Đọt dừa non có thể làm gỏi, lăn bột, xào rất thích hợp với người ăn chay. Đặc biệt, có một món ăn đặc biệt mà nhiều người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa). Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp nên được chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng.

Trái dừa luôn được coi là phần giá trị nhất trên cây dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước uống. Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Lá dừa có thể dùng để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất đốt thường dùng để đun nấu phổ biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời.

Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó còn có rất nhiều công dụng với đời sống của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 13

“Bến Tre dừa ngọt sông dài
Bến Tre dừa xanh bát ngát"

Nhắc đến Bến Tre là ta không thể không nhắc đến dừa- một loại cây quen thuộc với người dân Việt ta. Đi dọc dải đất miền Tây nắng gió ta nhất định sẽ bắt gặp những rặng dừa rủ bóng xanh mát. Cây dừa không chỉ làm đẹp cho cảnh sắc làng quê mà nó còn có nhiều công dụng hữu ích cho con người.

Dừa là loại cây dễ trồng, nó có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng thích hợp nhất là đất pha cát và có khả năng chịu mặn tốt nên ở Việt Nam dừa được trồng nhiều nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Dừa được chia ra làm nhiều loại trong đó có hai loại phổ biến phải kể đến là dừa xiêm và dừa khô. Các giống dừa xiêm sẽ cho ra nước để uống còn các giống dừa khô sẽ dùng để lấy tinh dầu dừa nguyên chất. Ngoài ra còn có một số giống dừa đặc biệt khác như dừa sọc, dừa sáp, dừa dứa.

Mặc dù được chia ra nhiều giống khác biệt nhưng phần lớn cấu tạo của các cây dừa là giống nhau. Thân dừa mọc thẳng , không phân nhánh, cao tầm 20m đến 25m. Thân dừa là đặc điểm để đánh giá sự sinh trưởng của cây bởi thân dừa cao chỉ phát triển mạnh sau từ 4 đến 5 năm. Lá dừa xanh, dài, chia thành nhiều tàu rủ xuống giống như lá chuối nhưng chúng không liền một dải như chuối mà mỗi lá chia thành nhiều nhánh. Một cây dừa sẽ có khoảng 30 đến 35 tàu lá và vào thời kì trưởng thành mỗi tàu lá sẽ dài từ 5m-6m. Rễ dừa được sinh ra liên tục ở phần đáy gốc thân, không có rễ cọc. Rễ không có lông hút mà chỉ có rễ dinh dưỡng. Khi cây dừa 5 năm tuổi nó có 548 chiếc rễ và đến năm 13 tuổi chúng sẽ đạt số lượng lên tới 5200 rễ.

Hoa dừa có màu trắng và nhỏ, thuộc loại đơn tính, hoa đực và hoa cái riêng lẻ vì vậy hoa dừa được thụ phấn chủ yếu nhờ gió và côn trùng. Quả dừa được sinh ra từ hoa. Quả dừa tròn quây quanh thân dừa kết thành từng buồng. Mỗi buồng gồm từ 5 đến 10 trái. Vỏ dừa cứng, độ cứng của cùi và độ ngọt của nước dừa bên trong sẽ phụ thuộc vào độ “già” của trái dừa. Khi thu hoạch dừa người ta phải trèo lên cây dừa để vặn, xoay, cắt cho trái dừa rơi xuống đất hoặc có thể đứng dưới đất dùng sào tre để cắt trái dừa rụng xuống.

Cây dừa đã dốc hết sức lực của mình để phục vụ cho đời sống con người. Có thể nói chúng ta tận dụng được hết những bộ phận của dừa vì chúng vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị sử dụng. Thân dừa to khỏe được đục đẽo làm thành những chiếc xuồng giúp người dân miền Tây đi lại trong những ngày lũ lụt hay những ngày xuôi mái chèo qua rừng ngập mặn. Gỗ dừa còn dùng làm đồ mĩ nghệ tinh xảo. Lá dừa phơi khô có thể làm chất đốt trong gian bếp làng quê, làm mái che, đan làm giỏ đựng và ta cũng có thể dùng lá dừa sáng tạo ra chiếc chổi dừa độc đáo. Đến rễ dừa có thể tận dụng để làm thuốc nhuộm...

Và phần giá trị nhất có lẽ là quả dừa. Nước dừa có vị thanh ngọt dùng để giải khát trong những ngày nắng nóng thì không gì sánh được. Cùi dừa dùng để kho thịt, làm mứt hay kẹo dừa- những món ăn quen thuộc với người dân Việt. Xơ dừa được tách ra và được bện thành những sợi dây thừng vững chắc, nó cũng là một nguyên liệu cần thiết để sản xuất than củi. Dừa còn là một phương pháp làm đẹp hữu hiệu với chị em phụ nữ. Dầu dừa có công dụng làm đẹp da, chống nứt nẻ và dưỡng tóc óng mượt. Người xưa còn ca ngợi dầu dừa bằng câu ca dao:

“Không chồng, son phấn qua loa,
Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa.”

Quả thật, cây dừa đã gắn bó với người dân Việt Nam từ bao đời nay. Dừa tỏa bóng mát làm dịu tâm hồn con người, dừa lại tạo giá trị kinh tế giúp con người kiếm thêm thu nhập. Cây dừa còn đi vào thơ ca, tạo nên một nét riêng giản dị đặc trưng của tâm hồn Việt. Vì thế dừa xứng đáng là một loài cây được yêu quý và trân trọng.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 14

Khi lớn lên tôi đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: Dừa có tự bao giờ?

Cây dừa từ lâu đã gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam ta, là biểu tượng cho các vùng quê yên ả, thanh bình. Cây dừa gắn bó, gần gũi, thân thuộc với làng quê, gợi cho chúng ta vẻ đẹp của người nông dân và vẻ đẹp của lao động. Vậy có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi như cậu bé trong bài thơ ‘Dừa ơi’ hay chăng? Cây dừa có tự bao giờ? Cây dừa từ đâu mà sinh sôi nảy nở? Cây dừa lớn lên và đơm hoa, kết trái ra sao? Hãy cùng nhau chúng ta tìm hiểu và khám phá về cây dừa nhé.

Nguồn gốc của cây dừa từ đâu mà có thì không ai biết rõ, chỉ biết rằng từ đời này qua đời khác cây dừa đã luôn xuất hiện và trở thành một phần trong đời sống của chúng ta. Cũng có những người thì cho rằng cây dừa có cội nguồn từ khu vực Đông Nam Á của chúng ta, nhưng cũng có các giả thuyết khác về nguồn gốc của loài cây này như ở miền Tây Bắc Nam Mỹ, khu vực New Zealand, khu vực Hawaii,... Vì dừa có đặc điểm sinh sống rất đặc biệt nên cây dừa phân bố chủ yếu ở các khu vực như Châu Á, Thái Bình Dương,…Đó là các khu vực nhiều nắng nhiều gió và tần suất mưa nhiều, rất phù hợp để thân dừa phát triển. Còn trên mảnh đất chữ S của chúng ta, dừa có nhiều và trải dài từ khu vực miền Trung kéo đến tận cùng mũi Cà Mau thân yêu của Tổ Quốc.

Thân dừa cao lớn, có đường kính khoảng 40-50cm, màu sắc pha trộn giữa màu nâu sậm và xanh lá cây, có những chấm mốc xanh lốm đốm trên cây và chia rõ thành nhiều đốt. Lá dừa xanh, dài, có nhiều tàu lá, ôm trọn lấy thân dừa mà xòe ra thành chiếc tán rộng.. Hoa dừa nhỏ, có màu trắng, là loại hoa tạp tính, có cả hoa đực và hoa cái trên cùng cụm hoa. Dừa ra hoa liên tục mà nhờ đó mà chúng ta có trái dừa. Trái dừa có được nhờ quá trình thụ phấn chéo của hoa dừa, thường mọc theo buồng, mỗi buồng có khoảng từ 5 đến 10 trái. Qủa dừa có hai lớp vỏ, một lớp vỏ ngoài và một lớp vỏ trong. Lớp vỏ dày bên ngoài và phần xơ dừa ở giữa đã ôm trọn phần cùi dừa và nước dừa bên trong. Cứ như vậy, dừa đơm hoa kết trái liên tục, đem đến cho chúng ta nguồn thu hoạch vô kể.

Họ dừa có rất nhiều loại khác nhau: Dừa xiêm, dừa nếp, dừa cảnh, dừa sáp,..mỗi loại lại có những đặc điểm đặc tính khác nhau, đem lại cho người dùng sự phong phú, đa dạng khi sử dụng.

Dừa có rất nhiều công dụng đối với đời sống sinh hoạt của chúng ta. Thân dừa nhờ to lớn mà được dùng nhiều làm cột làm nhà, làm cầu, làm đũa,..Nước dừa thường được dùng để làm nước uống, hoặc để tăng thêm hương vị cho các món ăn trong nấu nướng. Xơ dừa được dùng nhiều làm dây thừng. Rễ dừa còn được dùng để làm thuốc nhuộm, làm các bài thuốc dân gian chữa bệnh. Dầu dừa được biết đến nhiều nhất trong lĩnh vực làm đẹp, có thể dùng để dưỡng da, dưỡng tóc,..và cũng có thể dùng để nấu ăn. Có rất nhiều công dụng của dừa mà chúng ta không thể liệt kê hết được, tùy vào mục đích sử dụng mà dừa đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích, giá trị.

Có thể thấy, cây dừa đem lại cho chúng ta rất nhiều điều, có một ý nghĩa nhất định trong đời sống văn hóa, sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam. Nó đã trở thành một biểu tượng của hồn quê, của người dân quê hiền lành, cần cù, chất phác, một nắng hai sương với trời với đất nhưng vẫn đem lại dòng nước ngọt ngào mát trong. Đó là tinh hoa đất trời gửi tặng để chúng ta góp phần xây dựng cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Cây dừa đã trở thành một giá trị tinh thần to lớn, đi vào các lời ca cao, các trang thơ bài văn của chúng ta. Vì vậy mà nó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào kho tàng nghệ thuật của dân tộc ta.

Môi dịp đi xa về chỉ cần ngồi dưới gốc dừa quê và uống một ngụm nước dừa trong mát là mọi muộn phiền dường như không còn nữa. Cây dừa đã đóng góp rất nhiều cho đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam, là một người bạn hữu ích của làng quê Việt Nam.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 15

Dọc theo chiều dài hình chữ S của đất nước Việt Nam xinh đẹp, ta sẽ bắt gặp rất nhiều những loài cây quen thuộc và gần gũi như: dưa hấu, mít, nhãn, xoài ở miền Bắc; sầu riêng, mãng cầu ở miền Nam ... Và không thể không kể đến cây dừa. Dừa là một loại cây vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam. Đặc biệt, dừa còn là loài cây không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của người dân xứ Nam này. Dừa đóng một vai trò vô cùng thiết yếu và quan trọng đối với cuộc sống thường nhật của chúng ta.

Dừa là loại cây thuộc loại cây ở vùng ôn đới. Dừa có thể chịu được thời tiết ở nhiều vùng, miền và địa hình khác nhau. Dừa có thể được trồng ở chỗ có nhiều cát, gió như ở bãi biển, hoặc cũng có thể trồng ở vùng nội địa ở trong đất liền. Dừa là loại cây có thân thẳng đứng. Dừa rất cao. Chiều cao trung bình của một cây dừa rơi vào khoảng 5m – 6m. Thân dừa cao, thẳng và trơn. Thân dừa không có là mà nhẵn bóng giống như thân cây cau. Rễ dừa rất chắc, có thể ăn sâu vào trong lòng đất mẹ, hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Lá dứa thuộc loại lá bản to. Lá dừa có màu xanh, to và mọc thành từng khóm dày. Điều thú vị nhất ở cây dừa đó chính là quả dừa. Quả dừa tùy từng loại. Loại lấy nước thì vỏ bên ngoài có màu xanh lá cây đậm, cùi bên trong mỏng và mọng nước. Loại lấy cùi thì vỏ bên ngoài có màu nâu, thớ vỏ hơi cứng và cùi dày, ít nước và nước của loài dừa này thường là chua, không ngọt như loại dừa lấy nước.

Dừa là loại cây có rất nhiều công dụng. Lá dừa có thể dùng để gói xôi, vừa giữ được mùi thơm của xôi hay giúp cho xôi có thêm hương thơm của cỏ cây tự nhiên vừa có thể bảo vệ môi trường, hạn chế được việc sử dụng những bao nilon khó có thể phân hủy. Quả dừa có thể dùng để lấy nước. Nước dừa là một sản phẩm được mọi người ưa chuộng và vô cùng thích sử dụng bởi nước dừa không quá ngọt và cũng không quá nhiều dinh dưỡng, nó thanh, nhẹ và mát. Rất thích hợp uống vào những thời tiết oi nóng. Dừa còn được dùng để chiết xuất thành các loại chăm sóc da rất tốt cho chị em phụ nữ. Đặc biệt là cùi dừa có rất nhiều công dụng. Nó có thẻ dùng để làm mứt dừa. Mứt dừa là món ăn không thể thiếu của người Việt Nam trong lễ hội, và nhất là trong những dịp Tết đến xuân về. Cùi dừa còn có thể kho với thịt ba chỉ rất ngon và ngậy. Đây là một món ăn phổ biến trong bữa cơm của mỗi gia đình Việt Nam.

Như vậy, cây dừa có rất nhiều những công dụng có ích trong cuộc sống của chúng ta. Nó không chỉ tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước quê hương mình mà còn có những công dụng vô cùng hữu ích trong cuộc sống của chúng ta.

Thuyết minh về cây dừa - Mẫu 16

"Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng"

Có lẽ hình ảnh cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với tất cả mọi người. Ai mà chẳng có lần được thưởng thức vị nước dừa thơm ngon cơ chứ. Ở Việt Nam, dừa thường có nhiều ở những vùng ven biển và đặc biệt là dừa thường tập trung từ Quãng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.

Có rất nhiều ý kiến tranh cãi về việc cây dừa xuất hiện lần đầu ở đâu trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Dù có ở đâu thì đây cũng là loại quả vô cùng được ưa chuộng đối với mọi người. Dừa thường sống ở nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt. Đặc biệt những quả dừa sẽ có thể phát triển một cách tối ưu nếu nơi đó có độ ẩm cao( khoảng 70-80%). Có lẽ vì vậy mà người ta thường trồng nhiều dừa ở ven biển để nó có thể phát triển một cách tốt nhất. Dừa được chia làm nhiều loại nào dừa xiêm( loại dừa này nhỏ hơn so với trái dừa bình thường nhưng nước lại rất ngọt), dừa nếp( trái vàng xanh mơn mởn), dừa lửa( lá đỏ quả vàng hơi hồng)… dù là loại dừa nào thì cũng đều có vẻ đẹp riêng.

Cây dừa cao lắm, có thể cao bằng cả một tòa nhà cao tầng ở nơi đây vươn ra đón nắng đón gió. Rễ cây dừa không to mà tỏa ra thàng nhiều sợi rễ nhỏ, cắm sâu vào lòng đất cần cù lấy chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân dừa không to, vừa đủ bằng một vòng tay của em nhưng cao lắm. Thân cây sần sùi màu nâu và ở trên thân thường có những vòng tròn nhỏ đều tăm tắp và cách đều từ gốc lên tới ngọn cây. Từ thân cây sẽ tỏa ra những tàu lá to và dài. Từ bên dưới nhìn lên, những tàu lá xanh như vươn dài ra tận trời xanh như những cánh tay bảo vệ cây khỏi gió bão nơi biển cả. Ở mỗi tàu lá đều có những chiếc lá nhỏ và dài xếp thẳng tắp dọc theo tàu lá và nhỏ dần về phía ngọn. Đặc biệt ẩn bên dưới những tàu lá ấy là từng chùm quả dừa màu xanh to và tròn trông rất thích mắt. Qủa dừa to và nặng lắm nhìn từ xa trông như một quả bóng. Quả có vỏ cứng và dày màu xanh nhạt và ẩn bên trong lớp vỏ ấy là một lớp cùi trắng trông rất hấp dẫn bao bọc xung quang như bảo vệ phần nước dừa bên trong. Nước dừa không ngọt quá như những loại cây ăn quả khác mà nó chỉ ngọt thanh thanh, khi uống đem lại cảm giác rất sảng khoái và dễ chịu.

Cây dừa đem lại rất nhiều công dụng cho mọi người. Như đã nói ở trên, nước dừa được coi là một loại nước giải khát vô cùng được ưa thích trong những ngày hè nóng nực. Ngoài ra nước dừa còn được dùng để làm nước chấm, kho cá kho thịt… Cùi dừa có thể được dùng để làm mứt, làm nước cốt dừa hay dầu dừa rất tốt và giàu chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó phần vỏ cứng của vỏ dừa còn có thể được sử dụng để làm than hoạt tính hay chất đốt. Không chỉ mỗi trái dừa có giá trị mà những bộ phận khác của cây cũng được dùng trong rất nhiều việc hữu ích như thân dừa chắc nên có thể làm cột, làm cầu ; lá dừa to có thể dùng để lợp mái nhà….

Như vậy có thể thấy cây dừa không chỉ góp phần làm cho cảnh quan đất nước thêm tươi đẹp mà còn được dùng để sử dụng trong rất nhiều việc. Cây dừa hữu ích như vậy nên mỗi người chúng ta cũng cần phải chăm sóc, bảo vệ nó cẩn thận để cây có thể phát triển một cách tốt nhất.

Thuyết minh về cây dừa Nam bộ

Nhà thơ Lê Anh Xuân, người con đất Nam bộ đã từng dành cho cây dừa quê hương biết bao tình cảm tha thiết:

“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Cây dừa là cây vốn được trồng phổ biến ở các khu vực miền biển nước ta, tập trung nhiều nhất ở Nam bộ, tạo nên những vùng du lịch nổi tiếng. Cây dừa mang lại nhiều lợi ích và ăn sâu trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam từ bao đời nay.

Dừa là loài cây thuộc họ Cau, là họ duy nhất trong chi Cocos và có thân gỗ lớn hình trụ. Dừa có nguồn gốc từ đảo Andaman, vịnh Bengal, Ấn Độ và các quần đảo thuộc khu vực Đông Nam châu Á. Từ các quần đảo này, thông qua các dòng chảy của đại dương hoặc các các nhà thám hiểm, cây dừa đi khắp thế giới. Từ đó, cây dừa trở thành một loài cây trồng ưa thích và phổ biến ở nhiều quốc gia. Ngày nay, dừa được trồng nhiều ở các vùng nhiệt đới, đặc biệt là đảo hay các vùng ven biển.

Cây dừa xuất hiện ở Việt Nam từ trước công nguyên. Từ thế giới hoang dã, cây dừa được trồng phổ biến ở các vùng đồng bằng ven biển. Bến tre và Bình Định là những khu vực trồng nhiều dừa nhất nước ta. Trên các đảo, chúng ta ta cũng trồng rất nhiều dừa tạo nên những cảnh quan rất đẹp. Những bãi biển xanh mát dừa cao thu hút được nhiều du khách đến chiêm ngưỡng và nghỉ ngơi.

Dựa vào đặc điểm hình thái và mục đích sử dụng có thể phân loại dừa thành 2 nhóm giống chính. Nhóm giống dừa cao và nhóm giống dừa lùn. Ngoài ra, để có được các giống dừa mới có năng suất và chất lượng cao, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Người ta còn lai tạo ra một nhóm giống dừa mới phù hợp với khí hậu và đất trồng của từng khu vực gọi là dừa lai.

Dừa là loại cây thân thẳng, không phân nhánh. Thân dừa là thân đơn trục một thân chính, không có cành nhánh. Thân dừa mọc thẳng, không phân nhánh, chiều cao trung bình từ 15 – 20m. Đôi khi có thể cao tới 30m.

Cây dừa trưởng thành thường mang 25-40 tàu lá. Mỗi tàu lá có chiều dài trung bình 4-6m, được chia làm 2 phần cuống lá và lá. Phần cuống là phần không có lá chét, lồi ở mặt dưới, bằng hoặc hơi lõm ở mặt trên. Phía đáy phình rộng và dẹt hơn ôm chắc lấy thân cây. Mỗi tàu lá có khoảng 90-200 lá chét mỗi bên. Phần lá chét ở 2 bên không đối xứng nhau hoàn toàn. Khi tàu lá rụng sẽ để lại sẹo trên thân cây trơn nhẵn.

Rễ dừa là loại rễ bất định, sinh trưởng liên tục ở phần đáy gốc thân. Dừa không có rễ cọc. Rễ dừa rất mạnh khỏe và dẻo dai, có thể mọc ra liên tục trong suốt cuộc đời cây dừa. Rễ hút chất dinh dưỡng nuôi cây và giữ cho thân dừa đứng vững trong gió.

Hoa dừa là loài tạp tính hình thành dưới dạng chùm gọi là phát hoa. Phải mất 30-40 tháng kể từ khi hoa bắt đầu hình thành đến khi nở hoa dừa mới bung ra hết. Thường thì mỗi nách lá cho 1 phát hoa. Mỗi phát hoa có rất nhiều hoa. Quả dừa hình thành bám chặt trên phát hoa này.

Quả dừa thuộc loại quả hạch, nhân cứng. Quả gồm có ba phần là ngoại quả bì, trung quả bì và nội quả bì bao gồm gáo, nước và cơm dừa. Quả dừa cũng là cơ quan sinh sản của cây. Mầm non mọc từ bên trong và tự nảy mầm trên mặt đất. Gặp điều kiện ẩm ướt, rễ dừa đâm sâu vào đất tạo thành cây con mới.

Cây dừa thường sống ở vùng nhiều nước thuộc các vùng trũng thấp. Khi trồng, gốc cách gốc khoảng từ 2 – 3 mét. Dừa phát triểm nhanh vào mùa mưa. Cây trồng từ 2 đến 3 năm là trưởng thành và cho quả. Dừa có thể phát triển tốt và cho quả từ 50-60 năm. Càng già, dừa càng ít quả và hay sâu bệnh.

Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt. Dừa ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa trung bình. Dừa cần độ ẩm cao (70–80%+) để có thể phát triển một cách tối ưu. Do đó, Dừa chỉ có thể trồng từ tới cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12. Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn.

Người miền Nam thường hay trồng dừa quanh nhà. Nhiều nơi trồng ven bờ ao hoặc trong thành đám lớn để khai thác quả. Hình ảnh cây dừa trước ngõ vu vi trong gió đã đi sâu vào trong tiềm thức con người. Từ lâu, hình ảnh cây dừa trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Nam bộ.

Cây dừa có sức sống mạnh mẽ chịu được khô hạn. Khi trồng còn bón thêm cho dừa các loại phân như lân, phot-phat, đạm… Một vài nơi người ta còn bón thêm muối và vôi để dừa tăng khả năng chống bệnh và cho quả ngọt.

Cần bảo vệ cây dừa trước sự phá hoại của bọ dừa, kiến vương, đuông, sâu nái, chuột,… Cần tránh một số bệnh thường gặp ở dừa như: bệnh lá đốm, bệnh thối đọt, nứt và rụng trái để cây dừa phát triển và cho quả tốt.

Mỗi cây dừa trưởng thành cho khoảng 80 – 100 quả mỗi năm. Người ta thường thu hoạch khi quả xanh trưởng thành để lấy nước và cơm dừa. Quả già có màu nâu, vỏ cứng, thường lấy cơm dừa làm tinh dầu hoặc các loại bánh kẹo. Kẹo dừa, dầu dừa là đặc sản nổi tiếng của vùng đất Bến Tre.

Dừa là loại cây cho quả nhiều dầu nhất nước ta. Từ các bộ phận của cây dừa có thể cho ta rất nhiều loại sản phẩm chế biến phong phú và đa dạng:

Thân dừa được cắt xẻ lấy gỗ. Ở miền biển, gỗ dừa là vật liệu chính để xây nhà, làm cầu, che chắn đồ dùng. Gỗ dừa rất bền chắc nếu được bảo quản ở điều kiện khô ráo. Vỏ dừa lấy sợi; làm thuốc trị bệnh mẩn ngứa, nấm da. Người ta tước các sợi từ vỏ thân cây dừa hoặc quả dừa bện thành dây thường rất bền chắc.

Lá dừa làm vật lợp mái nhà, vật liệu che phủ, hoặc làm vở lá gói bánh, làm các đồ chơi, đồ thủ công mỹ nghệ. Lá dừa còn là chất liệu đốt, làm phân bón,… Lá dừa bén lửa rất mạnh. Ở các vùng quê, lá dừa được sử dụng để đun nấu.

Xơ dừa làm vật liệu trồng hoa lan và một số loài cây cảnh; đốt lấy nhiệt, làm phân bón cây. Gáo dừa thường đốt lấy than; làm đồ mỹ nghệ, đồ gia dụng. Với tính chất cứng, không hút ẩm, gáo dừa ngày càng phát huy vai trò lớn trong việc tạo ra những vật dụng an toàn, thân thiện với môi trường.

Nước dừa là một loại nước uống giải khát giàu dinh dưỡng. Ngày nay, ngoài việc uống tươi, nước dừa còn được đóng lon, hộp, trở thành loại nước uống phổ biến trên thế giới. Ngoài ra nước dừa còn dùng để làm rượu, thuốc chữa bệnh và dinh dưỡng rất hiệu quả trong y học cổ truyền.

Cơm dừa là sản phẩm chính của cây dừa. Cơm dừa dùng trong nấu ăn, là bài thuốc tốt cho những người suy nhược, ăn uống kém, giúp nhuận tràng. Cơm dừa là nguyên liệu làm nhiều loại bánh kẹo. Cơm dừa còn dùng để ép lấy dầu. Hủ dừa là loại thực phẩm thường được sử dụng trong các bữa ăn gia đình.

Cây dừa giúp chắn gió, cát ven biển, bảo vệ đồng ruộng nội địa. Đây là cây tiên phong ở vùng phèn mặn. Hàng dừa cao vút bao năm che mưa, chắn gió, chắn cát bảo vệ làng mạc, ruộng vườn, giữ gìn môi trường sống của con người.

Trong ngày lễ, tết, cưới hỏi người Nam bộ dùng dừa làm đồ trưng bày trong mâm ngũ quả: “cầu, dừa, đủ, xài (xoài), xung”. Dừa là một trong năm thành tố tạo nên mơ ước được phồn thịnh của con người nơi vùng đất châu thổ Cửu Long. Ngoài ra, trong ba ngày tết, nhà nào cũng có mứt dừa với các màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng trông rất bắt mắt. Mứt dừa làm cho không khí ngày tết thêm rộn ràng.

Thật không thể nào quên những chiếc bánh lá dừa, bánh nhân dừa, chè nước cốt dừa ta vẫn ăn thường ngày. Thức ăn chế biến từ quả dừa đã tạo nên một nét khác biệt đậm đà trong đời sống ẩm thực Việt Nam.

Dừa đi vào âm nhạc, hội họa, thi ca và các hình thức nghệ thuật khác trong đời sống người dân Nam bộ.

“Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương”.

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Mỗi buổi trưa hè, nằm dưới tán lá dừa xanh, nghe gió thổi vi vu trên tầng cao thật thú vị biết bao. Nhìn ánh sáng lấp lóa như muôn vạn vì sao lung linh giữa bầu trời trong vốn là niềm vui thú của biết bao con người xứ dừa. Cây dừa hiền lành và cần mẫn như tính cách của người nông dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, với thiên nhiên thơ mộng và bao dung.

Dừa cũng cùng con người trải qua biết bao thử thách của mẹ thiên nhiên mỗi khi người nổi giận kinh hoàng. Hình ảnh hàng dừa vươn mình chống bão tố, chống bom đạn của kẻ thù như người chiến sĩ quyết hi sinh bảo vệ xóm làng đã trở thành biểu tượng của lòng kiên trung, bất khuất:

“Dừa bị thương dừa không cúi xuống
Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài”

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Cây dừa Nam bộ in dấu đậm nét trong đời sống văn hóa của nhân dân miền Nam. Đặc biệt, cây dừa có giá trị văn hóa rất tiêu biểu cho vùng đất chín rồng đang vươn mình trỗi dậy. Cây dừa hứa hẹn bay xa, bay cao, để từ đó, góp phần đưa kinh tế – xã hội của vùng đất mới này ngày càng phát triển.

Thuyết minh về cây bàng – Mẫu 1

Không biết tự bao giờ, cây bàng trước cửa lớp đã trở nên vô cùng thân thương đối với tôi. Tôi đã ngắm cây bàng ấy trong suốt cả bốn mùa. Mùa nào, bàng cũng có một vẻ đẹp riêng. Không biết có phải thế không hay do tình yêu tôi dành cho loài cây này mà tôi thấy bàng mùa nào cũng đẹp.

Khi những tiếng ve đầu tiên bắt đầu ngân lên báo hiệu mùa hè đến, cũng là lúc dòng nhựa chảy trong bàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dòng nhựa ấy tiếp sức để những chiếc lá bàng mới ngày nào còn bé bỏng non nớt, giờ đã xanh ngắt xòe ra to. Thì ra, bàng đã phải làm việc siêng năng suốt ba mùa để bây giờ xòe tán xanh che mát cho chúng tôi. Bàng cũng thật hào phòng khi thỉnh thoảng nhờ chị gió gửi cho mấy chiếc lá để làm quạt. Cũng chính lúc này, bàng nở những chùm hoa trắng muốt, nhỏ li ti. Mỗi làn gió nhè nhẹ thoảng qua là có cả thảm hoa bàng lại trải đều quanh gốc, vương đầy trên mái tóc dài Óng ả của các nữ sinh. Bàng đẹp và bọn con gái chúng tôi hình như cũng đẹp hơn khi điểm hoa bàng trên tóc.

Sau ba tháng hè xa cách các bạn học sinh, bàng rạng rỡ hẳn lên khi thu về. Nắng thu vàng dịu ngọt xuyên qua từng mặt lá làm gương mặt bàng sáng bóng lên. Ai thấy mình đẹp mà chẳng vui, Bàng vui vì thấy mình đẹp. Mà hình như còn được nghe lại tiếng nói, tiếng cười xôn xao của các bạn học trò tinh nghịch, dễ thương. Bàng xôn xao cùng chúng tôi trong mỗi ngày học mới, bàng chia sẻ cùng chúng tôi bao buồn vui của tuổi học trò. Còn nhớ, một lần không làm bài tập, thầy giáo đã phạt tôi thật nặng. Tôi buồn quá, giờ chơi lân la đến gốc bàng. Bất ngờ, bàng gửi tặng tôi một trận mưa hoa. Cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một bài thơ. Ai có ngờ đâu, bài thơ ấy trong cuộc thi sáng tác trẻ lại giành ,cho tôi giải A. Tôi lại thầm cảm ơn bàng. Nhờ có bàng mà tôi hiểu rằng cuộc sống thật là một chuỗi những buồn vui như thế!

Thu qua, đông lại. Mùa đông lá bàng chuyển màu sẫm nâu. Rồi một buổi sáng tôi thấy cây bàng rực lên màu đỏ như lửa. Ngọn lửa khổng lồ ấy cháy đỏ suốt mấy tuần. Tôi đứng dưới gốc bàng, thấy mình sưởi ấm. Có lẽ cây bàng đã tự đốt mình để chống lại giá rét mùa đông? Rồi gió bấc thổi qua, những chiếc lá màu lửa rụng xuống. Sau khi cởi bỏ tấm áo rực rỡ của mình, bàng chỉ còn lại tấm thân sần sùi với những cành khẳng khiu đứng trơ trọi giữa gió mưa. Bàng thu mình ngủ ngon lành trong tiếng ru của gió. Cây bàng cứ đứng vậy chống đỡ cả mùa đông. Để xuân về, bàng lại vươn mình bừng dậy… Mùa xuân về, thời tiết trở nên ấm áp, và cây bàng nhú ra muôn vạn lộc non. Hầu như suốt mùa đông, cây bàng đã giấu trong nó tiềm tàng màu xanh non của sự sống. Cây bàng đón xuân nhiệt thành, say đắm. Có lẽ, nó hiểu rằng nó cũng phải góp chút ít tinh túy của mình để làm nên sức dào dạt của đất trời.

Tôi lặng đi khi nghĩ đến ngày mai phải chia tay mái trường, phải chia tay cả bàng nữa. Còn bây giờ, tôi và bàng vẫn cứ là bạn thân. Sớm nay, trời thật đẹp. Bàng vẫn đang giơ tay đón chào tôi đến lớp. Tôi yêu bàng nhiều lắm, nhiều lắm.

Thuyết minh về cây bàng – Mẫu 2

Tuổi thơ tôi gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng…

Hồi năm bảy tuổi cho đến khi đủ mười tám tuổi để nhập ngũ, dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy một cây bàng nào từng trải và to lớn như cây bàng phố tôi. Thân nó to, phải hai, ba vòng tay người lớn mới ôm xuể. Còn tán nó rộng, che kín cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vuông. Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn này dễ thường đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là cây bàng cổ thụ.

Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần đi bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tôi hình dung về một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi.

Top 15 bài Thuyết minh về cây bàng hay nhất (ảnh 1)

Tôi thích nhất là vào tiết rét lộc vào cữ tháng 2 âm lịch, theo cách phân chia mùa đông của các cụ nhà ta: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba cộc rét. Vào thời điểm ấy, những lộc bàng râm ran như thể đang mời mọc nhau, mời gọi nhau mọc, mời gọi nhau lớn cho kịp phủ kín cành vào đầu mùa hạ có thể nói: Lá bàng (cũng giống như một số cây khác thuộc họ nhà xoan) có biểu hiện rõ nhất về sự chuyển mùa, nếu như có một ai đó chịu khó quan sát sự phát triển và tàn lụi lẫn sự đổi thay màu lá của nó.

Có lẽ vì thế mà từ bao đời nay, đám trẻ hay lưu luyến mấy câu trong lời một vài bài hát: Mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh…như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết đây là phần mở đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước).

Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đông, nhìn ngắm màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm căm

Vẫn mơ hồ mưa bụi

Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy

Đỏ như khi phải từ biệt bầu trời

Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa

Khi mùa đông tới gần…

Nhưng đến năm tôi hai mươi ba tuổi thì cây bàng cổ thụ ấy không còn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đứng trên mảnh đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lòng không khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong lòng tôi tự dưng thấy trống trải thiếu thốn…

Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn thấy lá bàng đỏ rực lên sau khi hoàn tất chức phận của mình, để mà rụng về gốc, trong buổi giao mùa, tôi lại nao nao nhớ cây bàng cổ thụ. Cũng phải, vì nó là một phần kỷ niệm không thể thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng tôi.

Thuyết minh về cây bàng – Mẫu 3

Không biết tự bao giờ, cây bàng trước cửa lớp đã trở nên vô cùng thân thương đối với tôi. Tôi đã ngắm cây bàng ấy trong suốt cả bốn mùa. Mùa nào, bàng cũng có một vẻ đẹp riêng. Không biết có phải thế không hay do tình yêu tôi dành cho loài cây này mà tôi thấy bàng mùa nào cũng đẹp.

Khi những tiếng ve đầu tiên bắt đầu ngân lên báo hiệu mùa hè đến, cũng là lúc dòng nhựa chảy trong bàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dòng nhựa ấy tiếp sức để những chiếc lá bàng mới ngày nào còn bé bỏng non nớt, giờ đã xanh ngắt xòe ra to. Thì ra, bàng đã phải làm việc siêng năng suốt ba mùa để bây giờ xòe tán xanh che mát cho chúng tôi.

Bàng cũng thật hào phòng khi thỉnh thoảng nhờ chị gió gửi cho mấy chiếc lá để làm quạt. Cũng chính lúc này, bàng nở những chùm hoa trắng muốt, nhỏ li ti. Mỗi làn gió nhè nhẹ thoảng qua là có cả thảm hoa bàng lại trải đều quanh gốc, vương đầy trên mái tóc dài Óng ả của các nữ sinh.

Bàng đẹp và bọn con gái chúng tôi hình như cũng đẹp hơn khi điểm hoa bàng trên tóc.Sau ba tháng hè xa cách các bạn học sinh, bàng rạng rỡ hẳn lên khi thu về. Nắng thu vàng dịu ngọt xuyên qua từng mặt lá làm gương mặt bàng sáng bóng lên. Ai thấy mình đẹp mà chẳng vui, Bàng vui vì thấy mình đẹp. Mà hình như còn được nghe lại tiếng nói, tiếng cưới xôn xao của các bạn học trò tinh nghịch, dễ thương.

Bàng xôn xao cùng chúng tôi trong mỗi ngày học mới, bàng chia sẻ cùng chúng tôi bao buồn vui của tuổi học trò. Còn nhớ, một lần không làm bài tập, thầy giáo đã phạt tôi thật nặng. Tôi buồn quá, giờ chơi lân la đến gốc bàng. Bất ngờ, bàng gửi tặng tôi một trận mưa hoa. Cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một bài thơ. Ai có ngờ đâu, bài thơ ấy trong cuộc thi sáng tác trẻ lại giành ,cho tôi giải A. Tôi lại thầm cám ơn bàng. Nhờ có bàng mà tôi hiểu rằng cuộc sống thật là một chuỗi những buồn vui như thế!

Thu qua, đông lại. Mùa đông lá bàng chuyển màu sẫm nâu. Rồi một buổi sáng tôi thấy cây bàng rực lên màu đỏ như lửa. Ngọn lửa khổng lồ ấy cháy đỏ suốt mấy tuần. Tôi đứng dưới gốc bàng, thấy mình sưởi ấm. Có lẽ cây bàng đã tự đốt mình để chống lại giá rét mùa đông?

Rồi gió bấc thổi qua, những chiếc lá màu lửa rụng xuống. Sau khi cởi bỏ tấm áo rực rỡ của mình, bàng chỉ còn lại tấm thân sần sùi với những cành khẳng khiu đứng trơ trọi giữa gió mưa. Bàng thu mình ngủ ngon lành trong tiếng ru của gió. Cây bàng cứ đứng vậy chống đỡ cả mùa đông. Để xuân về, bàng lại vươn mình bừng dậy…

Mùa xuân về, thời tiết trở nên ấm áp, và cây bàng nhú ra muôn vạn lộc non. Hầu như suốt mùa đông, cây bàng đã giấu trong nó tiềm tàng màu xanh non của sự sống. Cây bàng đón xuân nhiệt thành, say đắm. Có lẽ, nó hiểu rằng nó cũng phải góp chút ít tinh túy của mình để làm nên sức dào dạt của đất trời.

Tôi lặng đi khi nghĩ đến ngày mai phải chia tay mái trường, phải chia tay cả bàng nữa. Còn bây giờ, tôi và bàng vẫn cứ là bạn thân. Sớm nay, trời thật đẹp. Bàng vẫn đang giơ tay đón chào tôi đến lớp. Tôi yêu bàng nhiều lắm, nhiều lắm.

Thuyết minh về cây chuối – Mẫu 1

Những hoa thơm trái ngọt mà thiên nhiên tạo hóa diệu kì đã ban tặng cho đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta không thể thiếu đi chuối- một loại quả thơm ngon dẻo ngọt và rất được ưa dùng.

Cây Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và là một loài cây ưa nước nên khi đến thăm những vùng quê ta sẽ bắt gặp những bụi chuối mọc hàng ngàn bên cạnh bờ ao, suối. Cây chuối được trồng chủ yếu để lấy trái, và ở mức độ ít hơn là lấy thân và để trang trí. Chuối có gốc tròn, rễ chùm nằm ở bên dưới. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì, từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối xanh, mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối có một buồng chuối, mọc ở tít phần cao nhất của thân cây, bên dưới mặt những tán lá to rộng. Mỗi buồng phải có tới trăm quả chi chít nhau hoặc hơn thế nữa. Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới hai mươi quả quả, và mỗi buồng có ba đến hai mươi nải như thế. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau Chuối là loại cây có thân ngầm. Phần thân chính nằm dưới đất gọi là củ chuối. Phía trên chỉ là một thân giả mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành từ nhiều lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt trơn bóng và nhẵn. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Ban đầu, những chiếc nõn chuối còn xanh non, sau đó lá xòe ra có màu xanh đậm hơn. Khi già, lá ngả dần về màu vàng đất, rũ xuống để nhường chỗ cho lá tươi. Khi cây chuối trưởng thành, nó bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuối đều có một buồng, mỗi buồng gồm nhiều nải mỗi nải có nhiều quả. Buồng chuối mọc từ hoa từ thân ra. Giữa tán lá xanh mát, hoa chuối như ngọn lửa hồng chiếu sáng cả vòm lá xanh. Hoa sắp thành hai hàng theo kiểu xoắn tạo thành nải chuối. Sau đó những chiếc bẹ rụng dần là lúc những nải chuối con xuất hiện. Khi chuối còn xanh thì có màu xanh đậm còn khi chín thì ngả sang màu vàng.

Trong đời sống nhân dân Việt Nam, chuối là một loại cây hữu dụng từ thân, lá đến hoa, quả. Quả chuối cung cấp hàm lượng đường cần thiết cho cơ thể hoạt động. Chuối ăn dễ tiêu hóa, vừa sáng mắt lại tốt cho da, làm cho làn da luôn sáng mịn. Thân chuối có thể làm thức ăn cho trâu, bò, lợn rất tốt. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Lá chuối có thể dùng để gói bánh, gói xôi... khi phơi khô có thể làm chất đốt. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Chuối là thức quả để thắp hương trong các ngày lễ, tết. Trong ngày rằm hoặc mùng một, người ta dùng chuối chín. Đây còn là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày Tết. Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa, đất bãi ven sông. Quá trình sinh trưởng của một cây chuối không dài khoảng một năm. Mỗi cây chuối chỉ một lần trổ buồng, sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển. Một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu, sinh trưởng rất nhanh. Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối được người nông dân ưa chuộng. Nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu, bắt sâu. Nếu chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy.

Bên cạnh những loại cây gần gũi như trầu, cau, dừa… thì chuối còn tượng trưng cho sự bình dị, thanh bình của làng quê. Cây chuối có từ ngàn đời. Nó dâng hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình cho con người. Cây chuối là nét đẹp thanh bình của thiên nhiên, của đất mẹ, của nông thôn Việt Nam.

Top 12 bài Thuyết minh về cây chuối hay nhất (ảnh 2)

Thuyết minh về cây chuối – Mẫu 2

      Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam.

      Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất xanh và tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cầy uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ: chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường...

      Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rỗng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng... và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn,... vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng.

      Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn ở đời sống tinh thần: cây chuối là biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn liền với cuộc sống nông thôn, với đất nước, dân tộc ta.

       Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.

Thuyết minh về cây chuối – Mẫu 3

Đi khắp các làng quê Việt Nam, đọng trong lòng chúng ta là hình ảnh những buồng chuối tươi mơn mởn, sai trĩu những quả thơm. Nói đến cây chuối, đã là người Việt Nam thì không ai là không biết. Cây chuối đã tồn tại cùng con người như một người bạn thân thiết. Có thể nói, cây chuối đã trở thành một thứ không thể thiếu trong đời sống người Việt Nam từ xưa tới nay.                                                             

       Chuối có tới năm bảy loại, nào là chuối hương, chuối ngự, chuối sứ, chuối mường, chuối tiêu... Mỗi loại chuối đều có hương vị thơm ngon riêng, tạo ra nét đặc biệt không thể lẫn với những loại khác. Thế nhưng các loại chuối đều mang vẻ bên ngoài giống nhau. Thân cây tròn, thấp, trơn bóng, to bằng cả cái cột đình. Lá cây xanh non, dài, to bản và các gân đối xứng nhau. Thế nhưng lá chuối khô lại có màu nâu, giòn và cứng. Bắp chuối có màu đỏ, thuôn dài, còn gọi là hoa chuối. Nõn chuối xanh non, mịn và mòng. Mỗi cây chuối trưởng thành đều có thể cho ta một buồng chuối. Tuỳ theo từng loại, có loại cho hàng trăm quả một buồng, có cả loại mỗi buồng cho cả nghìn quả. Nhiều cây còn trĩu trịt quả từ ngọn xuống gốc.

       Để có đươc vai trò quan trọng như hiện nay trong đời sống của người Việt Nam, chuối đã "cống hiến" cho đời sống vật chất không biết bao nhiêu. Thân cây thái nhỏ ra có thể làm thức ăn cho lợn rất tốt. Còn lá cây thì giúp ta trong các việc như là để gói xôi, gói bánh rất tiện lợi và dễ kiếm. Lá chuôi khô có thể dùng làm chất đốt, để quấn bánh gai hoặc ở nông thôn, ta còn thấy lá chuối khô còn quấn nhỏ làm nút chai rượu. Không chỉ thế, hoa chuối còn dùng để làm nộm (nộm hoa chuối). Món nộm hoa chuối đươc rất nhiều người ưa thích, đặc biệt là sinh viên vì nó vừa ngon lại vừa rẻ. Chỉ cần nhìn thấy thôi cũng đủ khiến cho ta cảm thấy thèm thuồng. Thái một ít nõn chuối ra cho vào đĩa rau muống xanh mướt là ta đã có một đĩa rau vừa ngon miệng vừa đẹp mắt. Quả chuối có lẽ là nhiều công dụng nhất. Các chị, các cô, các bà hay ăn chuối vì trong chuối có chứa nhiều chất vitamin rất tốt cho một làn da mịn màng. Và chủ yếu chuối thường dùng để ăn nhiều hơn vì nó rất ngon. Người ta còn thường dùng chuối thắp hương như một lễ vật dâng cho thần linh để thể hiện lòng tôn kính. Chính vì vậy, chuối là một loại trái cây rất được ưa thích tại Việt Nam và cả một vài nước khác.

       Cây chuối trong đời sống vật chất của người Việt Nam cũng khá quan trọng, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế còn nhiều eo hẹp. Ở nông thôn, mỗi khi chuối chín, người ta hay cắt ra thành từng nải để đem bán, những nải chuối đó đều rất rẻ nên nhiều người mua. Còn trong đời sống văn hoá của người Việt, cây chuối cũng như bưởi hay hồng, nó cũng là một trong năm loại quả dâng lên tổ tiên, nhất là các dịp lễ Tết. Trong tâm thức của mỗi người, cây chuối là một loài cây tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê, nhất là thời thơ ấu.

       Cây chuối từ lâu đã đóng vai trò lớn trong cuộc sống của người Việt Nam. Đối với mỗi người, cây chuối đã trở thành một loài cây vô cùng gần gũi, thân thiết.

Tài liệu có 46 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống