TOP 17 bài Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 14 2.4 K 1

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ hay nhất, gồm 14 trang trong đó có dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và 17 bài văn mẫu nghị luận hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

NGHỊ LUẬN BÀI MÙA XUÂN NHO NHỎ

Bài giảng: Mùa xuân nho nhỏ

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 1

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa điểm nào, hoàn cảnh nào Thanh Hải cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Có thể nói bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.

Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thanh thoát hơn:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời,

Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ.

Trước khung cảnh màu xuân ấy, Thanh Hải không giấu nổi cả xúc của mình

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Từ “giọt long lanh” không chỉ hiểu là giọt mưa xuân trong ánh sáng của sắc xuân mà còn được hiểu là giọt âm thanh, giọt sắc màu, giọt thời gian khiến tác giả say sưa ngây ngất. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.

Chỉ bằng vài nét điểm xuyến phác hoạ tác giả đã vẽ ra một không gian cao rộng, sắc màu tươi thắm, âm thanh vang vọng tươi vui của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời.

Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trải dài nương mạ.

Tất cả như hối hả,

Tất cả như xôn xao…”

Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.

Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.

Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Cùng với động từ Cứ đặt ở đầu câu, tác giả đã khẳng định một sự khẩn trương, hói h, náo nức vào xuân của đất nước với vẻ đẹp lung linh, lấp lánh đang vững bước về phía trước khiến không một thế lực thù địch nào có thể ngăn cản nổi.

Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.

Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót dâng tiếng ca lảnh lót , một cành hoa toả hương khoe sắc để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.

Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

Một mùa xuân nho nhỏ hay phải chăng cũng là một ẩn dụ cho chính cuộc đời của tác giả: sống là cống hiến, cống hiến chính là mùa xuân của cuộc đời? Mà mùa xuân ấy thì là mãi mãi: “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc, khi sức cùng lực kiệt vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời. Và, dù Thanh Hải cũng có đi xa thì những lời ca tiếng hát mà ông để lại cho đời mãi mãi vẫn có giá trị, mãi mãi vẫn tô điểm cho đất nước đẹp xinh. Điệp ngữ dù là được tác giả nhắc lại hai lần như một lời hứa, một lời khẳng định của nhà thơ: sống là phải cống hiến tuyệt đối. Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

Tác giả Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của Thanh Hải. Ông đã giãi bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.

Với thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, ‘’Mùa xuân nho nhỏ’’ mang một nét đặc sắc riêng Nét đặc sắc đó là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung. Bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải

Dàn ý chi tiết

1.Mở bài

Giới thiệu bài thơ cần nghị luận: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

2.Thân bài

Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

– Tác giả: Thanh Hải là nhà thơ thường viết về thiên nhiên và lòng yêu cuộc sống.

– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được sáng tác vào mùa đông năm 1980, khi đất nước thống nhất và còn đang đối mặt với nhiều thách thức đổi mới. Bài thơ được sáng tác trước khi nhà thơ qua đời một tháng, là tâm niệm chân thành được gửi lại với đời của nhà thơ.

Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên đất trời

– Hình ảnh giản dị về mùa xuân trong tưởng tượng:

+ Không gian: cao của bầu trời, dài rộng của dòng sông xanh.

+ Màu sắc: sắc xanh của dòng sông, sắc tím của loài hoa.

+ Âm thanh: tiếng chim chiền chiện,… –

-> Xuân hài hòa, đẹp đẽ đủ thanh âm và sắc màu.

– Từ gọi đáp: “ơi” và từ để hỏi “hót chi”: bộc lộc cảm xúc dâng trào trước mùa xuân thật đẹp.

– Hành động “hứng”: thái độ khao khát đón nhận cái đẹp đẽ, tinh túy của mùa xuân.

Khổ 2: Mùa xuân của nước nhà

– Hình ảnh đối lập: “người cầm súng”: tiền tuyến chiến đấu bảo vệ độc lập cho dân tộc

 >< “người ra đồng”: hậu phương ra sức hỗ trợ tiền tuyến.

– “lộc”: mầm non -> vừa là thành quả lao động của hậu phương trên ruộng nương, vừa lá ngụy trang của những người lính.

– Điệp ngữ “Tất cả”: tạo nhịp hối hả cho bước đi lên của đất nước.

– Từ láy: “hối hả”, “xôn xao”: tạo giọng reo vui trước tinh thần lao động khẩn trương của mọi người, mọi nhà.

Khổ 3: Mùa xuân của con người

– Gợi nhắc về trang sử bốn nghìn năm chống giặc ngoại xâm.

– Hình ảnh so sánh đặc sắc: “Đất nước như vì sao” -> Ví đất nước với những hình ảnh kì vĩ

-> Khẳng định sự đi lên, tiến lên của đất nước.

Khổ 4,5: Ước nguyện của nhà thơ

– Mong muốn làm những vật bình thường, giản dị: cành hoa, con chim, nốt trầm -> Tâm nguyện hiến dâng tuổi trẻ của mình cho dân tộc.

– “Ta”: khẳng định tâm nguyện không chỉ của riêng nhà thơ mà còn của nhiều người.

– Từ láy “lặng lẽ”: thể hiện mong ước cống hiến thầm lặng.

Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương qua làn điệu Huế

– “Mùa xuân ta xin hát”: mở ra niềm tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

– Khúc dân ca xứ Huế cuối bài tạo sự ngân nga mãi những giai điệu mùa xuân.

3.Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp, giá trị của bài thơ.

Các bài mẫu khác:

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 2

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng .

Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế.

Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện.

Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”,“chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả.

Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng.

Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong ,thật tròn,vang ngân giữa không gian,đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say.

Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.

Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:

Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.

Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ.

Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người.

Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn.

Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước.

Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả .

Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ .

Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả.

Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:

“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”
(Tố Hữu)

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 3

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm vì khi đó thiên nhiên đất trời với bao hình ảnh sắc xuân tràn đầy, là khoảnh khắc bao người con xa quê trở về đoàn tụ cùng gia đình và để rồi mùa xuân chính là mùa đáng nhớ nhất trong lòng mỗi người. Cũng giống như Thanh Hải, ông đã có cho riêng mình một mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đó là một “Mùa xuân nho nhỏ” với bao hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ và một khao khát giản đơn sẽ được cống hiến sức mình cho đất nước.

Mỗi một mùa xuân khi xuất hiện trong năm đều như báo hiệu cho những sự khởi đầu, tất cả như được khoác trên mình một tấm áo mới thật rạng rỡ kết hợp nhiều gam màu tươi sáng. Cũng giống như mùa xuân của đất nước, đó là sự bắt đầu một năm của đất nước đẹp đẽ, là những gì tinh túy và căng tràn sức sống nhất.

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng..”

Khung cảnh mùa xuân hiện ra trước mắt tác giả là một không gian có bầu trời cao rộng còn dòng sông rộng thì dài. Đó là những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị và thân thuộc với con người. Nghệ thuật đảo ngữ qua từ “mọc” mà Thanh Hải lựa chọn như đang mô tả một sức sống mãnh liệt đang từng bước trỗi dậy và vươn lên từ những cảnh vật xung quanh, bông hoa chính là một sự tưởng tượng vừa có sức sống vừa có sức gợi.

Bức tranh thiên nhiên với vạn vật tĩnh lặng ấy dường như được đánh thức trở lại bởi tiếng hót của con chim chiền chiện. Một con chim bé xíu nhưng lại khuấy động cả một không gian, nhưng thật ra chỉ có mỗi tác giả mới có thể cảm nhận và nghe thấy được mà thôi. Một con người nhỏ bé trước đất trời rộng lớn đang lắng nghe những điều tuyệt vời nhỏ nhắn đến từ bên ngoài cuộc sống.

Mọi khoảnh khắc dù là nhỏ bé nhưng bừng sức sống và thổi vào hồn thơ những cảm xúc lặng lẽ của Thanh Hải. Hình ảnh “giọt long lanh” ở đây chính là những giọt mưa, giọt sương hay giọt âm thanh vang dội. Nhưng có lẽ đó là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang.

Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà tác giả sử dụng như minh chứng cho một điều rằng tác giả đang sử dụng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận và tiếp xúc với thiên nhiên. Chỉ duy mỗi nhà thơ mới có thể cảm nhận được hết mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước. “Tôi đưa tay tôi hứng” chính là hứng những gì tinh túy nhất của thiên nhiên đất trời ban tặng.

Thanh Hải như đang bị cuốn mình vào trong những gì đẹp đẽ nhất, ông hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên vốn giản đơn nhưng lại có một sức hút lạ kì.

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”.

Vẻ đẹp của mùa xuân được thể hiện vỏn vẹn trong một từ “lộc”. Lộc ở đây tức là những sắc xuân đang đâm chồi và nở rộ, và đó cũng là những gì mà mùa xuân mang đến cho con người. Mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người cầm súng đang miệt mài bảo vệ biên cương và sự bình yên cho đất nước, mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người ra đồng vì những con người ấy đã mang đến vẻ đẹp rực rỡ trên ruộng lúa, nương mạ.

Để hồi hình ảnh đất nước hiện lên với một chặng đường lịch sử dài dằng dặc nhưng niềm tin về tương lai tươi sáng của tác giả dành cho đất nước thì chưa bao giờ dập tắt:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”.

Đất nước ta đã trải qua bao cuộc kháng chiến với bao quân giặc xâm lược, đất nước ta đã trải qua một chặng đường lịch sử dài với nhiều sự kiện lớn lao và đặc biệt. Nhưng đất nước ta vẫn như những vì sao đẹp đẽ luôn tỏa sáng một cách phi thường, vì ở đó đã có những con người hy sinh trên chiến trường vì Tổ quốc, đã có những con người không bao giờ từ bỏ để đem lại bình yên cho dân tộc. Một đất nước đẹp đẽ được hiện lên và thể hiện được một điều rằng đó là ý chí kiên cường và sức mạnh to lớn của đất nước Việt Nam tươi đẹp.

Mùa xuân nho nhỏ mang đến nhiều thông điệp đẹp đẽ

Khi còn nằm trên giường bệnh, Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời được khơi nguồn từ những cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên đất trời. Ước nguyện của tác giả là những ước nguyện rất chân thành, là khao khát được hòa nhập vào cuộc đời chung của đất nước:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca,

Một nốt trầm xao xuyến”.

Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời, mong muốn được cống hiến và làm nhiều việc có ích cho đời. Điệp từ “ta làm” được lặp lại chứng tỏ một điều rằng Thanh Hải luôn mang một sự khao khát được cống hiến với đất nước.

Con chim hót luôn đem lại tiếng ca cho cuộc đời, góp mặt vào những điều đẹp đẽ và dành tặng “chút nhiều” hạnh phúc cho con người. Một cành hoa tô điểm sắc màu của những ngày xuân ấm áp. Một nốt trầm tạo nên một giai điệu trầm lắng trong một bản hòa ca ngọt ngào, tuy lặng lẽ nhưng lại mang một sức mạnh tinh thần to lớn để động viên con người trong bối cảnh lúc bấy giờ. Cả ba hình ảnh ẩn dụ ấy như là những gì đẹp nhất, đặc biệt nhất trong không khí vui tươi của con người và đất nước Việt.

Điều đặc biệt trong đoạn thơ này, tác giả đã đổi cách xưng hô từ “tôi” thành “ta”, là cái tôi cá nhân hòa mình trong cộng đồng. Cách xưng hô này không chỉ nói đến mỗi tác giả mà còn hướng đến cái chung, đó là tất cả con người đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam. Ông luôn có một ước mơ, một hy vọng được hóa thân thành chim, thành hoa, thành những nốt nhạc để góp vui cho đời.

Sự hòa nhập với con người, với cuộc đời chính là ước mơ, là khát vọng của Thanh Hải. Vì bởi lẽ, ông luôn muốn cống hiến sức lực của mình dù là nhỏ bé cho một cuộc đời chung. Bầu không khí vui tươi của một sự khởi đầu mới, Thanh Hải đơn thuần chỉ muốn làm một nốt nhạc thầm lặng, là lặng lẽ nhưng mãnh liệt, là ước muốn hoàn thành trọn vẹn một bản hòa ca mùa xuân cho đất nước.

Ước nguyện của Thanh Hải cũng chính là mong muốn, sự khao khát của con người trong bối cảnh xã hội hiện nay và cả những “thời đã cũ”. Sống là khao khát và cống hiến cho đời mới là ý nghĩa tuyệt vời nhất và nâng cao giá trị bản thân của con người.

Quả thật, dân tộc Việt Nam luôn là những con người mạnh mẽ và tràn đầy nghị lực. Họ không sợ trời, không sợ đất, họ luôn trong một trạng thái sẵn sàng ra trận khi Tổ Quốc cần thì sẽ có mặt. Những khao khát cống hiến cho đời chính là “mục tiêu” chung nhất của con người, dù là trẻ, dù là già, dù ở bất kì độ tuổi nào:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

Mùa xuân luôn khiến người ta nghĩ về những điều mới mẻ, một sự tái sinh và đổi mới toàn diện. Mỗi con người đều có một “mùa xuân” riêng của mình, là thanh xuân, là tuổi trẻ. Từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” mà tác giả đề cập đến ở đây thể hiện những điều nhỏ bé bình thường nhưng vẫn đóng góp một cách âm thầm cho cuộc đời, cho lẽ sống.

Dù con người có đang ở độ tuổi đẹp nhất của thanh xuân nhưng hơn bao giờ hết họ không thấy tiếc khi dành trọn cả tuổi xuân của mình cho đất nước, mà ngược lại, sự hiến dâng cho cuộc đời mới là lối sống đẹp đẽ mà mỗi con người Việt Nam đã và đang sở hữu. Dù ở bất kì độ tuổi nào, hãy sống một cách trọn vẹn và hết mình, góp công sức của bản thân để phục vụ cho đất nước, đó mới chính là ý nghĩa.

Những cảm xúc của Thanh Hải luôn xuất phát từ những gì thật nhất, hướng mọi người sống phải hòa nhập, chứ đừng hòa tan. Mỗi người chúng ta dù là thời bình hay thời chiến, hãy cố gắng mỗi ngày, đóng góp và giúp ích cho đời, cho đất nước để vui cho chính mình và cho cuộc đời, nếu chúng ta thờ ơ vô cảm với cuộc sống.

Điệp ngữ “dù là” lặp lại đến hai lần tha thiết sâu lắng như một sự khẳng định tuổi 20 là lúc con người ta đang có những hoài bão cho riêng mình, có sức trẻ và có sức khỏe nhưng khi tóc bạc sẽ trở nên già yếu gần kề với cái chết hơn.

Sống chính là phấn đấu, là làm đẹp cho đất nước vậy nên hãy sống đẹp nhất có thể thì cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp hơn biết bao. Dù là khi Thanh Hải còn đang nằm trên giường bệnh nhưng trái tim và lòng nhiệt thành đối với đất nước chưa bao giờ thôi ngưng trong tâm hồn và suy nghĩ của ông. Để rồi khi kết lại, tác giả đã sử dụng điệu hát dân ca Huế để ngợi ca quê hương của mình. Và còn là một lời ước nguyện giản dị của tác giả dành cho đất nước, một niềm tự hào vô cùng sâu sắc:

“Mùa xuân ta xin hát

Khúc Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”.

“Mùa xuân nho nhỏ” được tác giả sử dụng thể thơ năm chữ với giọng thơ khi thì da diết khi thì mạnh mẽ và mãnh liệt. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phép điệp như là một sự nhấn mạnh, khẳng định rằng ông luôn có một khát vọng cháy bỏng là được đóng góp công sức bé nhỏ của mình cho đất nước. Biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh...được vận dụng một cách tinh tế và sáng tạo.

Bài thơ chính là một sự đóng góp tuyệt vời của Thanh Hải dành cho sự khởi đầu của đất nước. Mùa xuân thật đẹp, nhưng sẽ đẹp hơn khi người ta có một tình yêu dành cho đất nước. Thông điệp mà Thanh Hải muốn gửi đến với mọi người trong bất cứ thời đại nào là hãy luôn sống và chiến đấu hết mình trong công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 4

Phạm Duy từng viết trong một bài thơ của mình câu thơ đặc sắc như sau: "Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng khi đi hết những lời mẹ ru". Ý nghĩa của những lời mẹ ru đã trở nên thận thuộc gắn bó với tuổi thơ của mỗi người. Cũng với những xúc cảm yêu thương sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng ấy Chế Lan Viễn đã thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế những cảm xúc ấy qua bài thơ Con cò. Một bài thơ để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về những kỷ niệm thời thơ ấu, về lời ru tha thiết ngọt ngào, để lại những suy tư thật êm đềm về lòng mẹ đối với đứa con yêu dấu của mình.

Chế Lan Viên (1920-1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Quảng Trị, lớn lên ở Đình Định. Sự nghiệp sáng tác của ông trải dài khoảng hơn 50 năm. Trước Cách mạng ông nổi lên với tập thơ Điêu tàn (1937), tập thơ đã đưa Chế Lan Viên trở thành một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau Cách mạng ông lại là một nhà văn xuất sắc của thơ ca Cách mạng Việt Nam với những tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Di cảo thơ (1989). Thơ của Chế Lan Viên luôn giàu chất trí tuệ, có màu sắc suy tưởng, triết lý. Thơ ông còn có năng lực sáng tạo hình ảnh rất độc đáo, phong phú và tinh tế.

Con cò được sáng tác năm 1962, in ở trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967). Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, các câu ngắn dài đan xen một cách nhuần nhuyễn, cả bài thơ là âm điệu của những lời ru mà người mẹ dành cho con mình. Con cò khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru qua đó ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với mỗi con người. Bài thơ có sự vận dụng rất sáng tạo cấu tứ của ca dao, cùng thở thơ tự do, có những hình ảnh hết sức gần gũi thân thuộc vừa mang ý nghĩa biểu tượng vừa gợi âm hưởng lời ru êm đềm trong tiềm thức mỗi người.

Trong khúc ru thứ nhất, hình ảnh con cò bắt đầu đến với tuổi thơ của đứa bé thật thong thả, ung dung.

“Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay…”

"Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò Cổng Phủ

Con cò Đồng Đăng..."

Hình ảnh con cò không chỉ xuất hiện ở nhan đề mà còn xuất hiện trở đi trở lại trong suốt bài thơ, sự lặp lại ấy nhằm tập trung triển khai nhan đề của tác phẩm, với nhiều ý nghĩa khác nhau trong suốt bài thơ. Âm hưởng của ca dao đã hiện lên ngay trong những dòng thơ mà tác giả tinh tế đặt trong ngoặc kép, là những cấu tư mà Chế Lan Viên đã tinh tế lược lấy để đưa vào thơ mình, nhằm thể hiện chân thực cái lời mẹ ru con. Người mẹ đã đưa vào tâm trí đứa con còn bế trên tay, bằng lời tâm tình, lời hát ru dịu dàng, cái khung cảnh quen thuộc nơi làng quê, thật yên bình, tươi đẹp, cho con say giấc êm đềm.

Có thể thấy trong lời ru của mẹ, cánh cò luôn hiện diện, cũng như những tình cảm ấm áp trìu mến yêu thương mà người mẹ dành cho đứa con thơ. Hai câu thơ tiếp:

"Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ"

Tác giả viết bằng câu tám chữ với cấu trúc vừa song hành, vừa tương phản của cò và con. Lời ru của người mẹ vừa bộc lộ nỗi xót xa, ái ngại cho sự cô độc, lẻ loi của cánh cò nhỏ bé, người mẹ lại khẳng định sự che chở, nuôi dưỡng đùm bọc con, con khác với cò, con có sự chăm chút nuôi nấng cả mẹ, con có thể thoải mái chơi rồi ngủ. Hình ảnh cánh cò từ trong ca dao lại tiếp tục xuất hiện:

"Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng..."

Khác với hình ảnh con cò trong ca dao ở bên trên, ở đây Chế Lan viên cũng dùng âm hưởng của ca dao, nhưng lại để miêu tả nỗi vất vả, khó nhọc của con cò. Cò phải cô độc mò mẫm, gặp biết bao nguy hiểm, phải sợ sệt. Qua đó ta cũng có thể nhận thấy đây dường như là một hình ảnh ẩn dụ, gửi gắm vào đó thân phận của người nông dân chân lấm tay bùn, chịu nhiều vất vả, đắng cay, đặc biệt là thân phận những người bà, người mẹ phải lặn lội kiếm sống từng ngày. Tuy vậy nhưng họ vẫn nỗ lực giữ gìn nhân cách, phẩm giá thanh cao, giữ lại đức cho con cháu mình.

"Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân

Con chưa biết con cò con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân"

Chế Lan Viên đi từ hình ảnh con cò ung dung, thanh thản bay từ cửa Phủ, bay từ Đồng Đăng đến con cò ăn đêm, con cò xa tổ. Tất cả đều là những nỗi lo lắng, trăn trở, những dự cảm sâu sắc của người mẹ về những bất trắc có thể xảy ra đối với đứa con bé bỏng của mình. Chính thế người mẹ đã thể hiện lòng bao dung che chở cho con bằng những lời ru thật ấm áp, ngọt ngào "thấm hơi xuân", bằng tình mẹ bao la khi "Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân". Mẹ đã sẵn tay nâng cành mềm, che chở con khỏi sợ hãi, đơn độc, cho con những ngày tháng thật êm đềm, hạnh phúc, mà không cần phải lo đến "những cành mềm mẹ hát".

"Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi

Mai khôn lớn, con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân

Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn"

Ở khổ thơ thứ hai dường như nhà thơ đã bao quát toàn bộ cuộc đời của đứa trẻ, từ khi mới cắp sách tới trường cho tới khi khôn lớn và làm một nghề nào đó có thể là nghề thi sĩ. Đấy cũng chính là đại diện cho cuộc đời của mỗi một con người, ai cũng đều trải qua những giai đoạn như vậy. Và trong suốt chặng đường đó hình ảnh con cò vẫn luôn gắn bó với đứa trẻ, đã đi vào tiềm thức hết sức thân thuộc với mỗi người. Có thể thấy lời ru thiết tha, trìu mến của người mẹ đã đưa đứa con vào trong giấc ngủ say nồng. Trong những lời ru ấy cánh cò vẫn bay hoài không nghỉ, vẫn theo suốt trong từng hơi thở, trong từng giấc mơ của đứa trẻ. Dường như con cò từ trong ca dao đã thực sự sống dậy trong tâm hồn con người, vỗ cánh nâng đỡ cho con người trong suốt chặng đường đời. Chặng đầu tiên ấy là khi con còn ẵm ngửa, con còn ngủ trong nôi, cò đã đến cùng lời ru của mẹ, vào giấc ngủ thay mẹ vỗ về con ngủ. Khi con bắt đầu chập chững tới trường, cò lại theo con tới trường, có thể nói cánh cò chính là biểu tượng của người mẹ hằng ngày vẫn dõi theo con. Rồi mai này con khôn lớn, mẹ mong con làm thi sĩ, được sống một cuộc đời tự do tự tại, được như cò vỗ cánh bay xa, rồi con sẽ nhớ lại cánh cò, như nhớ về mẹ trong "hơi mát câu văn".

"Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con"

Trong khổ thơ cuối nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng giọng thơ dìu dặt của lời ru, từng câu chữ lắng đọng những suy tư thật sâu sắc. Con cò được nhấn mạnh như là một hình tượng có ý nghĩa triết lý hơn cả. Hình tượng con cò chính là biểu tượng của lòng người mẹ yêu con tha thiết, sẽ luôn ở bên con suốt cả cuộc đời. Dù con có đi xa hay gần, lên rừng hay xuống biển, nhưng cánh cò trong lời ru của mẹ sẽ mãi theo con, sống trong tiềm thức của con, thay cho mẹ theo con từng bước đi. Dù mai sau khôn lớn, con đã rời xa mẹ đi khắp mọi phương trời, thì đối với mẹ con vẫn mãi bé bỏng, vẫn cần mẹ phải che chở. Chính vậy mẹ sẽ theo con cả đời, để có thể bảo vệ con suốt đời.

"Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi"

Và sau tất cả, Chế Lan Viên đã đúc kết lại ý nghĩa lời ru của mẹ. Đối với nhà thơ con cò không chỉ nằm trong ca dao, trong lời ru ngọt ngào của mẹ mà có còn có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Cánh cò bay là cả cuộc đời, với biết bao suy tư, bao thăng trầm của cuộc đời, từ cánh cò mẹ dạy con biết bao điều, gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm mà có lẽ cả cuộc đời con cũng chưa chắc đã biết hết được. Mẹ yêu con nhiều đến thế, yều từ những lời ru, những cánh cò cho con.

Bài thơ đã ca ngợi cái tình cảm thắm thiết thiêng liêng của tình mẹ yêu con, qua đó Chế Lan Viên cũng ca ngợi ý nghĩa của mỗi lời ru đối với tâm hồn, cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ đã vận dụng rất nhuần nhuyễn chất liệu ca dao, khai thác được hình ảnh con cò trong ca dao để nói về tình mẫu tử, ý nghĩa của lời ru. Giọng điệu của lời thơ có nhiều sáng tạo về ngôn ngữ, về cách sử dụng hình ảnh, nhiều câu thơ có sức triết lý sâu sắc.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 5

Chế Lan Viên viết bài thơ Con cò vào năm 1962, in trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967). Bài Con cò mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 8 chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ!

Đoạn 1, người mẹ hiền bế con thơ trên tay, cất lời ru bài "Con cò" bay lả bay la... "Con cò mà đi ăn đêm...". Nhìn con thơ "Con còn bế trên tay - Con chưa biết con cò” mà lòng mẹ dào dạt tình thương. Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận; mẹ dành cho con bao chăm chút yêu thương. Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Cơn có mẹ, con chơi rồi lại ngủ .”

Mẹ đã dành cho con thơ tất cả: cánh tay dịu hiền của mẹ, lời ru câu hát êm đềm của mẹ, dòng sữa ngọt ngào của mẹ... Những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng tình mẫu tử bao la. Nhịp thơ cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về:

“Ngủ yên! Ngủ yên!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

Điệp ngữ "ngủ yên", "con chưa biết" và “ con cò" láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, thiết tha dìu dịu chan chứa hạnh phúc yêu thương.

Đoạn 2, mẹ ru con ngủ yên, ngủ ngon: "Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!". Ngắm nhìn con thơ mà lòng mẹ dào dạt mong ước. Con sẽ lớn khôn, con đến trường đi học:

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.”

Mai sau lớn lên con sẽ làm thi sĩ. Cuộc đời con nhiều sáng tạo, mải miết chuyên cần "bay hoài không nghỉ". Hình ảnh cánh cò trắng bay... thể hiện ước mơ đẹp của mẹ hiền về cuộc đời tương lai của con. Con sẽ nối chí cha. Một câu hỏi, khẽ thốt lên trong lòng mẹ hiền:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì ?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

Đoạn thơ cuối, tiếng ru con, tiếng hát của mẹ hiền cất lên dìu dặt, mênh mang. Mụ nghĩ về cuộc đời của con mai sau, và tình thương yêu của mẹ. Như một lời nguyền của mẹ:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

Chữ "dù", chữ "vẫn" được điệp lại, ý thơ được khẳng định, tình mẫu tử bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ thương con.

Phần cuối, lời thơ thấm đượm chất triết lí trữ tình. Nghĩ về con cò trong ca dao, nghĩ về cuộc đời con mai sau, người mẹ nghĩ về thân phận, số phận những con cò nhỏ bé, đáng thương, trong cuộc đời:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.”

Phải chăng người mẹ hiền đang bâng khuâng về câu hát: "Có xáo thì xáo nước trong - Đừng xáo nước đục đau lòng cò con"! Thác trong còn hơn sống đục, ấy là ý vị "cuộc đời" đáng thương, đáng trọng xưa nay.

Bài thơ Con cò là một bài thơ có đề tài nhỏ nhưng mang ý nghĩa sâu sắc: ca ngợi tình mẫu tử bao la và những ước mơ về con thơ của mẹ hiền, nói lên tình thương cuộc đời. Rất nhân hậu và nhân tình.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 6

Bác ra đi khi miền Nam còn chưa giành được độc lập. Trước khi nhắm mắt, Người vẫn canh cánh nỗi lòng ấy. Tình cảm giữa Bác và miền Nam này cũng đã từng được Tố Hữu nhắc đến:

“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

Miền Nam thương Bác, nỗi thương cha!”

(Bác ơi)

Viễn Phương là một người con miền Nam và cũng mang trong mình thứ tình cảm sâu nặng ấy. Ông đã chuyển chúng lên trang thơ của mình với nhan đề “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là niềm xúc động chân thành của một tấm lòng thành kính, yêu thương với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.

Viễn Phương là nhà thơ tiêu biểu miền Nam. Sau ngày Bác mất, “Viếng lăng Bác” là một trong những bài thơ xúc động nhất viết về Bác. Tác phẩm được sáng tác vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi đất nước được giải phóng. Nhà thơ cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm lăng Bác khi lăng vừa khánh thành. Trong không khí ấy, bài thơ thể hiện lòng thành kính, biết ơn cùng nỗi xúc động vô vàn của một người con đối với Bác Hồ trên đường vào lăng viếng. Từng câu thơ tám chữ lật dở ra cả một nỗi lòng chua xót…

Khổ thơ đầu tiên là trang cảm xúc khi nhà thơ ngắm nhìn khung cảnh ngoài lăng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Câu tự sự mở đầu bằng cách dùng đại từ xưng hô “con – Bác” mang đậm chất Nam Bộ. Lời giới thiệu, thông báo hết sức tự nhiên mà chân thành. Câu thơ thể hiện sự gần gũi, thân thương đối với Bác. Dù cho đó là vị lãnh tụ vang danh năm châu thì dường như không hề có khoảng cách nào giữa Người và con dân của mình. Viễn Phương dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” nhằm nói giảm nói tránh, giảm sự chua xót đau thương về sự thật Bác không còn nữa. Những người con đất Việt vẫn tới “thăm” Bác, ngỡ như Người vẫn đang còn sống với dân tộc! Con ở miền Nam xa xôi ra thăm Bác, nước nhà đã thống nhất mà Bác không còn nữa. Nỗi chua xót nào có thể hơn thế nữa? Hình ảnh hàng tre quanh lăng trong câu thơ tiếp theo là hình ảnh đầu tiên tác giả thấy được khi viếng lăng. Khung cảnh tre bát ngát dần hiện ra. Đây vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh biểu tượng. Không chỉ để miêu tả hàng tre thực có quanh lăng Bác mà Viễn Phương còn nhằm khái quát lên ý nghĩa biểu tượng: cây tre là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, đại diện cho dân tộc Việt Nam. Bác yên nghỉ như về với đất mẹ, về với điệu hồn dân tộc, về với dân tình làng cảnh Việt Nam:

“Tre xanh

Xanh tự bao giờ?

Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh”

(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

Hàng tre trung thành vẫn hiên ngang đứng đó, canh giữ giấc ngủ nghìn thu cho Người. Thành ngữ “Bão táp mưa sa” là ẩn dụ chỉ những khó khăn, vất vả. Nhưng dù có gian nan bao nhiêu thì tre vẫn đứng thẳng hàng như những người gác lăng thực thụ. Tre đã, đang và sẽ mãi là đại diện cho tinh thần hiên ngang, sức sống mạnh mẽ, kiên cường của dân ta. Khúc dạo đầu được mở ra bằng khúc nhạc tre ngân mãi, vang mãi,…

Khổ thơ thứ hai mở ra sự thương nhớ của tác giả khi đứng trước lăng. Mặt trời là hình ảnh quen thuộc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Đó là “Mặt trời chân lí chói qua tim” của Tố Hữu, là “Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” của Nguyễn Khoa Điềm và là cả cặp mặt trời sóng đôi trong thơ của Viễn Phương:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”

Mặt trời thứ nhất đầu tiên là mặt trời tự nhiên, mặt trời của thiên hà vũ trụ. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Mặt trời thiên nhiên vĩnh hằng bao nhiêu thì mặt trời trong lăng lộng lẫy, “rất đỏ” bấy nhiêu. Tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước của Bác cũng sáng loà như ánh thái dương kia vậy. Hai câu thơ đã khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của Bác như mặt trời tự nhiên. Bác như ánh mặt trời soi rọi đường đi, mang lại nguồn sáng, độc lập, tự do cho dân tộc…Hình ảnh “dòng người” ở câu thơ sau thể hiện lòng kính cẩn của người dân với Bác, ngày nào cũng có người tới thăm Bác với lòng tiếc thương vô hạn. Hình ảnh đó lại kết hợp với điệp cấu trúc “Ngày ngày…” giúp nhấn mạnh sự tuần hoàn, trạng thái liên tục của đoàn người hướng về Ba Đình lịch sử. Chính dòng người đó cùng nhau kết thành một “tràng hoa” thơm, dâng lên lòng biết ơn với người cha già. Đó còn là tràng hoa của những thành công trong lao động sản xuất, trong cuộc sống thường ngày của một năm sau ngày hoà bình lập lại muốn Bác thấy. Khép lại khổ thơ là biện pháp hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, chỉ số tuổi của Bác. Cả cuộc đời Bác tận hiến cho dân tộc, Bác dùng tuổi xuân của mình để tạc nên mùa xuân dân tộc.

Cảm xúc của Viễn Phương lên đến cao trào khi viếng lăng, nhìn thấy Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.”

Bác đã ra đi mãi nhưng tác giả tưởng như Bác chỉ ngủ một giấc ngủ dài, như bao đêm chiến trận Bác cũng từng ngả lưng như vậy:

“Việc quân, việc nước bàn xong,

Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.”

Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” được tác giả liên tưởng từ chính ánh sáng dịu nhẹ ở trong lăng. Những bóng đèn neon mờ nhẹ tạo cảm giác như Bác đang nằm dưới ánh trăng hiền hoà. Điều này còn giúp ta nhớ đến hình ảnh trăng xuất hiện dày đặc trong thơ Bác, nhắc nhớ ta lại tâm hồn thanh cao của Người. Đến đây, hẳn ai cũng xúc động bồi hồi trước tâm hồn của người cha già: vừa vĩ đại thanh cao vừa giản dị gần gũi. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” khẳng định sự trường tồn của Bác, Bác sẽ sống mãi với non sông Việt Nam như bầu trời tồn tại vĩnh hằng trong vũ trụ. Viễn Phương đã bộc lộ rõ cảm xúc của mình: “Nghe nhói ở trong tim”. Đó là sự quặn thắt, xúc động của tác giả khi đứng trước di hài lãnh tụ dân tộc. Sự rung cảm ấy không chỉ là sự rung cảm của mình nhà thơ mà còn là sự rung cảm của muôn triệu trái tim đất Việt trước nỗi mất mát quá lớn này. Bác đã ra đi, đó là một nỗi đau không gì bù đắp được.

Nếu như nỗi đau ở trên chỉ âm ỉ, “nhói ở trong tim” thì khổ cuối, cảm xúc chia tay Bác đã thành giọt lệ tràn li:

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Ở tột cùng của cảm xúc ấy, nhà thơ lại muốn lưu lại bên Bác, được thể hiện bằng khao khát hoá thân qua điệp ngữ “Muốn làm”: muốn hoá cánh chim dâng âm thanh cho Người, muốn hoá đoá hoa dâng hương thơm ngào ngạt, hoà thành cây tre trung hiếu canh giữ ngàn năm cho giấc ngủ Người bình yên. Hình ảnh tre ở khổ cuối bài thơ đến đây đã nâng thêm một tầm cao nữa: Viễn Phương hoá mình vào cây tre, nguyện đi theo lí tưởng cách mạng Bác đã để lại cho dân tộc. Ý thơ sâu lắng, lưu luyến, ngân vang mãi trong lòng mỗi người con dân tộc.

Bốn khổ thơ đã khép lại nhưng tứ thơ vẫn mãi mở ra, như tấm lòng Viễn Phương và toàn thể dân tộc ta cứ mãi hướng về Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” thực sự là bản đàn hay gửi tới Người sự kính trọng, mến yêu:

“Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”

(Sáng tháng năm - Tố Hữu)

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng” Bác của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người.

Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha

(Bác ơi)

Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức.

Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xiết bao xúc động:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.

Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người sắp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân.

Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm. Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.

Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.

Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.

Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bôn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả. Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 8

       Con người ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân trường cửu cho đất nước, cho dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát.

       Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”... Nhà thơ Viễn Phương đã thật tinh tế và sâu sắc khi liên tưởng ánh trăng với vầng trăng tri kỉ của Bác. Nhịp điệu câu trở nên dồn dập với điệp ngữ "muốn làm" nhắc lại đến ba lần đã nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: "con chim" dâng tiếng hót, "bông hoa" dâng hương thơm, "cây tre trung hiếu" canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều ở bên lăng, quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.

       Sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:

       Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết 'ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

       Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa" vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử

       Được viết năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác trong một lần vào lăng viếng Bác.

       "Viếng lăng Bác" được viết trên một cảm hứng thơ cụ thể và xúc động. Bố cục bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ khi nhanh khi chậm. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

       Câu thơ gợi một không khí ấm áp gần gũi. Và tác giả đã tăng sự gần gũi đó không phải chỉ bởi những câu thơ bình dị mà còn là việc sử dụng hình ảnh cây tre. Gắn bó với làng quê Việt Nam, tre đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng người Việt. Tác giả đặt lăng Bác trong màu xanh của xứ sở nơi mà ở đó có những con người anh dũng, kiên cường "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

       Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ thứ hai cũng rất độc đáo. Viễn Phương đã dùng hình ảnh mặt trời trên lăng để nói đến Mặt Trời trong lăng là Bác. Cái trường tồn, vĩnh cửu của Mặt Trời đã được nhà thơ sử dụng để nói sự bất diệt, vĩ đại của Bác.

       Và đồng thời nó cũng thể hiện sự tôn kính của tác giả đối với Bác. Từ "rất đỏ” nói lên hình ảnh rực rỡ trái tim cách mạng của Bác.

       Cùng với hình ảnh Mặt Trời - trong lăng là hình ảnh tràng hoa - dòng người đã diễn tả sâu sắc niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân ta đối với sự ra đi của Bác:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.

       Lý trí bảo rằng Bác sẽ luôn sống với non sông như bầu trời xanh kia mãi mãi, nhưng Viễn Phương không thể không đau nhói trước sự ra đi ấy:

"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.”

       Một chữ "nhói" mà nói lên được tấm lòng của đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác - cũng là tấm lòng của miền Nam, của cả nước đối với Bác kính yêu.

       Cảm xúc của tác giả lại dâng trào đến đỉnh điểm khi phải rời xa lăng Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

       Giọng thơ trầm lắng thể hiện sự lưu luyến của Viễn Phương: chân thành và xúc động. Bỗng giọng thơ trở nên dồn dập bởi điệp từ “muốn làm”. Đó là tất cả ước nguyện của tác giả:

"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."

       Những ước nguyện đó thật giản dị, mong muốn được mãi mãi gần gũi Bác, được mãi mãi đi theo lý tưởng của Người là tâm niệm không chỉ của riêng nhà thơ. Hình ảnh cây tre trung hiếu đã khép lại bài thơ, một kết nối vòng tròn rất hay. Tre là hình ảnh mở đầu và cũng là hình ảnh cuối cùng. Nó như khắc sâu phẩm chất người Việt Nam trung hiếu anh hùng.

       Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát. Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”

       Lời thơ tự do khi nhanh, khi chậm cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp đã tạo nên cho mạch cảm xúc chân thành sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là một sự đóng góp quý báu trong những bài thơ ngợi ca về Bác - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.

       Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 9

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hòa, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu”.

Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam … Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa.

Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 10

Văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong đó chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu. Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng vô cùng hàm súc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa đáng để ta suy ngẫm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên chuyển mình chuẩn bị bước vào mùa thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ “Bỗng” thể hiện thái độ chợt giật mình, không có sự chuẩn bị từ trước, cảm giác sững sờ, ngạc nhiên của tác giả khi ngửi thấy hương ổi - đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về. Phả là động từ chỉ hành động mạnh mẽ. Mùi hương của ổi chín theo làn gió đi khắp mọi nơi, chạm vào mũi của nhà thơ khiến cho tâm hồn nhanh nhạy ấy giật mình. Những làn sương chùng chình chậm chạp, lững thững trôi đi như muốn từ từ tận hưởng vẻ đẹp của tiết trời mùa thu. Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… Đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Cảnh vật đã có sự chuyển mình từ hạ sang thu vô cùng đáng yêu:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. Trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp đến. Đám mây không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu. Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh đáng để ta suy ngẫm:

Vẫn còn bao nhiêu nắng,
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần bởi mùa thu đã đến. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Bên cạn đó, sấm tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Bài thơ đã góp phần làm rõ nét hình ảnh làng quê lúc vào thu cũng như làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 1

Thiên nhiên vạn vật với vẻ đẹp hấp dẫn, phong phú luôn là nguồn đề tài thu hút, khơi nguồn cảm hứng ở các tác giả. Đặc biệt là khoảnh khắc giao mùa, những tâm hồn tinh tế nắm bắt trọn vẹn khoảnh khắc mùa cũ qua đi, mùa mới ghé đến. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, Thanh Hải đã nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế mộng mơ. Nó được thể hiện đặc biệt rõ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 2

"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc"

Tiếng ngâm ngọt ngào, bay bổng của nghệ sĩ Thu Hương trong chương trình "đêm thơ" làm cả nhà em chăm chú, lắng nghe. Một cảm giác lâng lâng đầy xúc cảm chạy khắp cơ thể em. Ôi bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải đấy ư? Đó là một trong những bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng đẹp nhất. Mùa xuân nho nhỏ, thật là nho nhỏ khi hai khổ thơ đầu chỉ là những vần thơ giản dị, ngắn, mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân Cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống êm ấm cho quê hương.

Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 1

Nhan đề của bài thơ làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên của mùa xuân qua những vần thơ đầy ý nghĩa. Bông hoa tím biếc và âm thanh rộn rã tả một thế giới tràn đầy nhựa sống. Cảnh mùa xuân mang nét riêng của xứ Huế, khác với hình ảnh mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, một không gian thoáng rộng với nền cỏ xanh điểm hoa lê trắng hay khác với sắc xuân trong thơ Hàn Mặc Tử: “Làn nắng ửng khói mơ tan” . Mùa xuân trong thơ Thanh Hải là dòng sông xanh trong suốt từ bao giờ. Dòng sông xanh chính là dòng sông Hương thơ mộng với sắc hoa lục bình tím biếc. Một màu tím đặc trưng cho xứ Huế mộng mơ. Khiến cho mỗi người đọc liên tưởng đến mỗi vần thơ của nhà thơ Lê Anh Xuân. Cách đảo ngữ “mọc”, gây ấn tượng về sự vươn lên đầy sức sống cỏ cây – một sức sống tràn trề tươi trẻ, một sự vận động nội tại của thiên nhiên cỏ cây. Cả một không gian cao rộng, nghe tiếng chim hót nàng thơ thốt lên lời gọi của tiếng chim thật thật thiết tha.

Top 11 bài Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ 2022 hay nhất (ảnh 2)

Thế là mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng đã đến với xứ Huế. Ông yêu cái xứ Huế đến nỗi nghĩ đến xứ Huế với bao tình cảm đẹp, thiết tha, da diết. Thế nên bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình cảm của con người, cảm thấy tình cảm của con người dành cho quê hương đất nước như thấm vào máu thịt. Tâm hồn nhà thơ lại mở rộng để đón nhận, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp sức sống nhẹ nhàng đưa tay đón lấy, hứng lấy “Từng giọt long lanh rơi” … Giọt âm thanh hay giọt sương? Cũng có thể là giọt mưa xuân. Bài ca xứ Huế vào xuân nghe tiếng hót trong trẻo véo von, thánh thót của chim chiền chiện. Có lẽ âm thanh ấy sẽ kết đọng lại thành giọt long lanh, lấp lánh và nhà thơ muốn đưa tay nhận từng giọt âm thanh ấy! Rất sáng tạo và đầy gợi cảm!

Nếu như Xuân Diệu đã có lần say sưa trước vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” để rồi hào hứng thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì Thanh Hải cũng ngất ngây tưởng chừng như hứng được cả tiếng xuân, giọt xuân trong tay.Thanh Hải đã dùng nghệ thuật chuyển hoá cảm xúc của mình. Từ âm thanh của tiếng chim nhà thơ tưởng như thấy được bằng thính giác, đã có thể nhìn thấy nó bằng thị giác rồi hứng cả tiếng chim trong tay bằng xúc giác. Dường như nhà thơ căng hết các giác quan của mình để đón nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời vào xuân. Cảm xúc ấy chỉ có thể có được trong một con người bình yên, không có một chút vướng bận, lo lắng gì cả. Đó cũng là cảm xúc của một con người yêu cuộc đời, yêu cuộc sống biết bao!

Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 2

Nhan đề của bài thơ làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên của mùa xuân qua những vần thơ đầy ý nghĩa. Bông hoa tím biếc và âm thanh rộn rã tả một thế giới tràn đầy nhựa sống. Cảnh mùa xuân mang nét riêng của xứ Huế, khác với hình ảnh mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, một không gian thoáng rộng với nền cỏ xanh điểm hoa lê trắng hay khác với sắc xuân trong thơ Hàn Mặc Tử: “Làn nắng ửng khói mơ tan” . Mùa xuân trong thơ Thanh Hải là dòng sông xanh trong suốt từ bao giờ. Dòng sông xanh chính là dòng sông Hương thơ mộng với sắc hoa lục bình tím biếc. Một màu tím đặc trưng cho xứ Huế mộng mơ. Khiến cho mỗi người đọc liên tưởng đến mỗi vần thơ của nhà thơ Lê Anh Xuân. Cách đảo ngữ “mọc”, gây ấn tượng về sự vươn lên đầy sức sống cỏ cây – một sức sống tràn trề tươi trẻ, một sự vận động nội tại của thiên nhiên cỏ cây. Cả một không gian cao rộng, nghe tiếng chim hót nàng thơ thốt lên lời gọi của tiếng chim thật thật thiết tha.

Thế là mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng đã đến với xứ Huế. Ông yêu cái xứ Huế đến nỗi nghĩ đến xứ Huế với bao tình cảm đẹp, thiết tha, da diết. Thế nên bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình cảm của con người, cảm thấy tình cảm của con người dành cho quê hương đất nước như thấm vào máu thịt. Tâm hồn nhà thơ lại mở rộng để đón nhận, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp sức sống nhẹ nhàng đưa tay đón lấy, hứng lấy “Từng giọt long lanh rơi” … Giọt âm thanh hay giọt sương? Cũng có thể là giọt mưa xuân. Bài ca xứ Huế vào xuân nghe tiếng hót trong trẻo véo von, thánh thót của chim chiền chiện. Có lẽ âm thanh ấy sẽ kết đọng lại thành giọt long lanh, lấp lánh và nhà thơ muốn đưa tay nhận từng giọt âm thanh ấy! Rất sáng tạo và đầy gợi cảm!

Nếu như Xuân Diệu đã có lần say sưa trước vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” để rồi hào hứng thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì Thanh Hải cũng ngất ngây tưởng chừng như hứng được cả tiếng xuân, giọt xuân trong tay.Thanh Hải đã dùng nghệ thuật chuyển hoá cảm xúc của mình. Từ âm thanh của tiếng chim nhà thơ tưởng như thấy được bằng thính giác, đã có thể nhìn thấy nó bằng thị giác rồi hứng cả tiếng chim trong tay bằng xúc giác. Dường như nhà thơ căng hết các giác quan của mình để đón nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời vào xuân. Cảm xúc ấy chỉ có thể có được trong một con người bình yên, không có một chút vướng bận, lo lắng gì cả. Đó cũng là cảm xúc của một con người yêu cuộc đời, yêu cuộc sống biết bao!

Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay – mẫu 1

Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt nam có bước đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em”. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.

Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên… là thế hệ măng đã sắp thành tre, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trò của mình đối với bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước. Tương lai đất nước là vận mệnh, là số phận của đất nước mà mỗi công dân sẽ góp phần xây dựng, phát triển, trong đó quan trọng nhất là thế hệ trẻ. Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì đòi hỏi sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nồng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ quốc.

Top 3 bài Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay 2022 hay nhất (ảnh 3)

Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng đường đại học, đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê cùng lòng nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, còn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp trẻ phát triển toàn diện, sinh ra những người con có ích cho đất nước, đó là điều tất yếu, hiển nhiên mà ai cũng biết. Mỗi người chúng ta cũng đi qua thời tuổi trẻ- tuổi của sức mạnh phi thường, của cái tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn và sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Sức mạnh vô sông của tuổi trẻ “sông kia phải chuyển, núi kia phải dời”. Chúng ta chỉ có một lần trong đời là tuổi trẻ vì vậy cần phải nắm bắt, cần đóng góp sức lực cho đất nước.Việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ không phải của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người thì lẽ nào tuổi trẻ lại không thể xây dựng đất nước. Chẳng lẽ chúng ta để cho những cụ già đi khuân vác, lao động nặng, những phụ nữ phải ngày đêm làm việc trong các nhà xưởng đầy khói bụi, những trẻ em phải phụ giúp gia đình ngay còn nhỏ mà “quên” đi việc học hành, lúc đó chúng ta sẽ “làm” gì? Chẳng lẽ ngồi không như một “người bị liệt”. Vì vậy chúng ta phải cố gắng xây dựng đất nước như lời dặn của Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Sinh ra ở đời ai cũng khao khát được sống hạnh phúc, sung sướng. Mỗi người luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là lý tưởng sống. Là chủ nhân tương lai thì chúng ta phải xác định cho mình lý tưởng sống phù hợp, đúng đắn. Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì tuổi trẻ chúng ta lại đứng trước một câu hỏi lớn: “Sống như thế nào là đúng đắn là có ích cho xã hội?” Vì lý tưởng sống của chúng ta là động lực thúc đẩy đất nước phát triển.Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xong pha vào những nơi gian khổ mà không ngại khó. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời kì kháng chiến. Những người con đất nước như: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám… đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Đây là những thanh niên của hơn 40 năm trước còn lớp thanh niên ngày nay thì sao?

Vâng. Cách bạn ạ! Chúng ta nên biết một điều: những thế hệ trước đã dâng hiến xương máu để ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “cùng nhau giữ nước” và nối tiếp, kế thừa truyền thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng là các bạn đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta phải hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự do, no đủ là một món quà quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc không tự nhiên mà có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất nước.Mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, suy nghĩ riêng. Chúng ta không được bác bỏ, phũ nhận quá khứ hay công sức của những anh hùng dân tộc. Đơn giản là vì mỗi thế hệ đều có sứ mệnh riêng, nhận thức riêng mà chúng ta không nên so bì, tính toán. Vì vậy: “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ” (như tổng bí thư Đỗ Mười nói). Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính là học tập. Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói đến việc học hành.. Trong cuộc sống ta gặp không ít trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha mẹ, thầy cô thúc ép, chứ không ham học. Họ xem đi học như một hình thúc giải khuây cho vui nên không cần học tập, coi học học tập là một nỗi nhọc nhằn.Có người lại coi việc học là để ứng phó với đời, để không xấu hổ với mọi người, để có “bằng cấp” mà hãnh diện với đời, dù đó chỉ là “hàng giả” mà thực lực không làm được.Chúng chẳng những không đưa nước ta “sánh kịp với cường quốc năm châu” mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại. Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình.Bước vào thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, lèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc. Và nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nữa, học mãi. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang.

Tóm lại, tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai đất nước sau này.Tuổi trẻ nước ta đầy rẫy nhân tài sẽ góp phần cho dáng hình sứ sở. Ngay từ hôm nay, tôi, bạn và tất cả mọi người phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước ta tiến nhanh trên con đường xây dựng và phát triển nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.

Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay – mẫu 2

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả,

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

(Tố Hữu)

Tố Hữu - nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải - đã viết trong bài “Một khúc ca xuân” những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Đó là “lặng lẽ dâng cho đời”. Còn Thanh Hải khi viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi, không những đã giãi bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.

Top 3 bài Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay 2022 hay nhất (ảnh 4)

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa điểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ đặc sắc nói về sức cống hiến, khát vọng đóng góp và trở thành người có ích của tác giả Thanh Hải. Dù nằm trên giường bệnh nhưng ông luôn lạc quan, khát khao sống và cống hiến cho cuộc đời và đất nước. Phải là người yêu quê hương đất nước tha thiết lắm ông mới có thể viết được những dòng thơ hay và đẹp để miêu tả, tái hiện chân thực hình ảnh mùa xuân của tự nhiên và mùa xuân của đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay, cần ý thức được tầm quan trọng cũng như trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của dân tộc và đất nước. Trong thời đại mới, thời đại của hội nhập toàn cầu, của giao lưu và phát triển kinh tế, mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò của mình trong việc thay đổi diện mạo, nâng tầm đất nước. 

Muốn thực hiện được điều đó, trước tiên cần trang bị cho mình sự vững chãi về kiến thức, kĩ năng đáp ứng những yêu cầu cơ bản của xã hội trong công cuộc hiện đại hóa nước nhà. Thế hệ trẻ cần ý thức được nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước luôn đi liền với nhau, điều này đòi hỏi lớp người trẻ phải có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, và ước mơ hoài bão cống hiến. Tất cả sự hưng thịnh, tồn vong của đất nước vì thế thế hệ trẻ phải nỗ lực, cố gắng hết mình ngay từ hiện tại.

Vẻ đẹp mùa xuân đất nước qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1

Mùa xuân là mùa của cái đẹp đâm chồi là mùa của sự căng tràn đầy sức sống, là mỗi sớm mai thức dậy được hít hà cái không khí dịu nhẹ tươi mát, là mùa của chồi non lộc biếc cùng những câu hát dân ca quan họ trữ tình. Có lẽ vì thế mà mùa xuân đã mang lại rất nhiều cảm hứng sáng tác cho với văn nghệ sĩ, đã đi vào lăng kính của thơ văn như một sự tất yếu và trữ tình.

Với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân vừa là tiếng lòng tha thiết, yêu mến, khát khao gắn bó với cuộc đời, với quê hương đất nước và khát vọng được hiến dâng, chính vì vậy mà bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã ra đời như thế. Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và rất tươi đẹp:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Cảm xúc về thiên nhiên thật tươi mới và thân thuộc trong khung cảnh đồng quê. Màu tím biếc của bông hoa lục bình soi dưới bóng của dòng sông xanh mát, tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca xuân bằng tiếng hát trong trẻo của mình, đây là loài chim báo hiệu một tương lai ấm no hạnh phúc cho con người. Lời thơ như tiếng hát, tiếng gọi say đắm trước khung cảnh thiên nhiên, trước bức tranh xuân đẹp dịu dàng. Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế được tác giả đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ ngắm dòng sông xanh, ngắm bông hoa bé nhỏ, nghe tiếng chim hót và bất giác thấy giọt sương long lanh trên tán lá cũng đủ làm trái tim của chúng ta thổn thức theo nhịp thở của mùa xuân. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của sắc trời khi bước vào xuân.

Khổ thơ thứ hai chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài hương lúa.

Sự chuyển mạch rất nhẹ nhàng và hợp lý. Bởi mùa xuân ấy đâu chỉ riêng là lộc của một vùng miền nào mà là của cả đất nước, của tất cả mọi người. Từ ”lộc” được nhắc lại hai lần ở đầu mỗi câu có thể hiểu như sức mạnh của dân tộc. Khi lộc đang “trải dài" trên những thửa ruộng những cánh đồng xanh ngát, bạt ngàn hương vị dịu ngọt của lúa.

Người ra đồng và người cầm súng là hai lực lượng chính để xây dựng Tổ Quốc. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Biết bao mùa xuân đã trôi qua, biết bao mùa xuân của dân tộc với những chiến công hiển hách đã in dấu ấn vàng son của dân tộc. Bao “vất vả” và “gian lao”, bao khó khăn khi trải qua thời kỳ bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đất nước Việt Nam ấy giờ đang tỏa sáng, phát triển và đi lên như những ngôi sao sáng rực rỡ trên bài trời của hòa bình, của tự do. Từ “cứ” thể hiện ra ý chí, quyết tâm, thể hiện một chân lý đơn giản mà thiêng liêng về khát khao của cả một dân tộc. Có thể nói những nỗi vất vả ấy bây giờ đã được đền đáp lại bằng những mùa xuân tươi đẹp, dài vô tận. Ước nguyện của nhà thơ thật chân thành:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Tác giả muốn trở thành con chim hót để gọi mùa xuân về, để mang tiếng hót trong trẻo, hạnh phúc để tô điểm thêm cho núi sông. Tác giả cũng muốn làm một” nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca vĩ đại của dân tộc để động viên và khích lệ tinh thần nhân dân. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.

Một mùa xuân nhỏ nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là khi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Một người cống hiến một mùa xuân nho nhỏ sẽ là cả một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. Mùa xuân nhỏ ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và đầy sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả. Khổ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân - ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế

Trong khổ thơ tác giả đã nói đến hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế bao đời này đó là giai điệu: Nam ai và Nam bình. Câu hát truyền thống và thiêng liêng ấy vẫn mãi đi sâu vào trái tim con người của chính tác giả đến phút cuối đời cùng khát vọng sống và cống hiến cho đất nước. 

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là viên ngọc sáng trong chùm thơ xuân của dân tộc.

Vẻ đẹp mùa xuân đất nước qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2

Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc,

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh "dòng sông xanh", "bông hoa tím", cách sử dụng các từ ngữ "ơi", "chi" đi liền sau động từ "hót" khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả

Top 3 bài Vẻ đẹp mùa xuân đất nước qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ 2022 hay nhất (ảnh 4)

Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sĩ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. "Lộc" theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Điệp từ "tất cả", từ láy "hối hả", "xôn xao" tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Hình ảnh so sánh đẹp: "đất nước như vì sao" toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:

Ta làm con chim hót

Ta làm một canh hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

"Mùa xuân nho nhỏ" là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây "mùa xuân" lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ "dù là" đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả. Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ

Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:

"Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!"

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1

“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Thanh Hải. Tác phẩm đã diễn tả được lòng yêu thiên nhiên, đất nước cũng như khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên vào mùa xuân với những nét đẹp thật giản dị:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Bức tranh được mở ra với không gian thật thoáng đãng của dòng sông, bầu trời và tiếng chim chiền chiện. Dòng sông xanh - một dòng sông thơ mộng hòa với đó là sắc tím của loài hoa. Tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca mùa xuân bằng tiếng hót trong trẻo của mình. Đây là loài chim báo hiệu khi mùa xuân về với khát khao hy vọng về một tương lai ấm no, hạnh phúc cho con người. Những câu thơ đọc lên gợi ra một bức tranh mùa xuân dịu dàng, say đắm. Hai tiếng “hót chi” vốn là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế. Khi được nhà thơ đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ với một vài hình ảnh đơn giản cũng đủ để chúng ta cảm nhận được hơi thở của mùa xuân.

Tiếp đến là những cảm nhận về mùa xuân của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

“Người ra đồng” và “người cầm súng” là hai lực lượng chính để bảo vệ và xây dựng đất nước - những người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ nền hòa bình và những người nông dân lao động phục vụ chiến đấu. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc. Nhiều mùa xuân đã trôi qua, máu và mồ hôi đã đổ xuống thì đất nước mới có được nền độc lập như ngày hôm nay:

“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Hình ảnh đất nước bốn nghìn năm - gợi ra chiều dài lịch sử lâu đời của dân tộc. Trong suốt bốn nghìn năm đó, đất nước đã phải trải rất nhiều “vất vả” và “gian lao” để dựng nước và giữ nước. Đất nước lúc này đã giống như “vì sao” ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cách dùng từ “cứ” thể hiện sự quyết tâm vươn về phía trước, không chịu đầu hàng khuất phục trước mọi khó khăn. Những vất vả khi trước đã được đến đáp bằng những mùa xuân tươi đẹp của hiện tại.

Cuối cùng, nhà thơ bộc lộ ước nguyện chân thành của mình:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”

Tác giả mong muốn trở thành “con chim hót” để nhập gọi mùa xuân về. Và mong muốn làm “một cành hoa” để dâng hiến hương sắc đẹp đẽ cho đời. Cuối cùng tác giả còn muốn “nhập vào hòa ca” để trở thành một nốt trầm xao xuyến trong bản nhạc say mê. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Một người cống hiến một “mùa xuân nho nhỏ” sẽ tạo thành một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. “Mùa xuân nho nhỏ” ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả.

Kết thúc bài thơ là tiếng hát đầy yêu thương:

“Mùa xuân - ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Như vậy, “Mùa xuân nho nhỏ” đã cho người đọc cảm nhận được tiếng lòng đầy tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành từ tận đáy lòng của nhà thơ.

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được một tiếng thơ đầy thiết tha mong muốn được cống hiến cho đất nước.

Mở đầu là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Chỉ bằng vài nét vẽ đơn giản và những hình ảnh thật thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có sự kết hợp của không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím” kết hợp với cách sử dụng các từ ngữ “ơi” , “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Hình ảnh ẩn dụ “giọt long lanh” hay chính là giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”

Hình ảnh “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Không khí lao động khẩn trương rộn ràng, say mê.

“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “tất cả” ,từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Hình ảnh so sánh đẹp “đất nước như vì sao” gợi cho ta về hình ảnh đất nước toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng.

Trước mùa xuân của thiên nhiên và đất nước, nhà thơ bộc lộ niềm khát vọng hiến dâng của mình:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa tỏa ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh túy nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.

Khi đọc xong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, người đọc đã cảm nhận được tình yêu mùa xuân của tác giả gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, cũng như khát khao dâng hiến cho cuộc đời.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1

Mùa xuân trong thi ca là đề tài được nhiều nhà thơ khai thác. Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, là mùa của khát khao sống mãnh liệt, là mùa của niềm tin vào cuộc đời. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của mảnh đất Huế thân yêu đã có bài thơ vô cùng hay viết về mùa xuân đó chính là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Điều tuyệt vời nhất là ông sáng tác bài thơ này khi đang nằm trên giường bệnh. Một người đang đau ốm mà vẫn cảm nhận được cái đẹp của mùa xuân. Chao ôi, mùa xuân ấy mới đẹp làm sao.

Suốt cuộc đời của mình, nhà thơ Thanh Hải đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc qua cả hai cuộc đấu tranh chống Mỹ và chống Pháp. Cái khát vọng được dâng hiến cuộc đời mình cho Tổ quốc luôn ẩn chứa trong con người tác giả. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ. Có thể xem đây là bài thơ, là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dành tặng cho chúng ta, dành tặng cho chính cuộc đời của ông.

Mặc dù đang ở trong tâm thế là người bệnh nhưng nhà thơ Thanh Hải viết nên những vần thơ không hề có sự buồn bực của một người sắp lìa xa cõi đời. Ngược lại, câu thơ của ông chứa đựng nét thiết tha và thanh thản. Một giọng văn đầy cởi mở và tươi mới. Tác giả đã nhìn thấy cảnh sắc của một mùa xuân mới thông qua một ô cửa sổ nhỏ, lắng nghe được tiếng gọi của mùa xuân một cách đầy tinh tế.

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Màu tím là một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Chúng ta vẫn nói Huế tím mộng mơ là vì thế. Màu tím biếc của bông hoa nổi bật lên giữa màu xanh của dòng sông. Đó là những bông hoa bèo đầy dân dã. Mặc dù tả màu tím của hoa nhưng khi đọc lên người đọc lại liên tưởng đến cả màu tím của tà áo dài của những cô gái Huế. Chúng mỏng manh và thật gợi tình. Từ chỗ nhìn thấy, tác giả bắt đầu nghe thấy. Đó là âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trời. Chim chiền chiện là loài chim thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân. Hình ảnh chim “hót chi mà vang trời” biểu lộ cho một sự vui tươi của cảnh vật và của chính nhà thơ nữa. Cảnh vật đẹp như vậy nên nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng mình. Muốn hứng lấy từng giọt long lanh của đất trời. “Giọt long lanh”, đó có thể là giọt sương mai, cũng có thể là tiếng chim hót được nhà thơ viết theo một lối chơi chữ tài tình. Hiểu theo cách nào thì cũng đủ để người đọc cảm nhận được sự trân quý của tác giả Thanh Hải đối với cảnh đẹp thiên nhiên.

Sau khi cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tác giả lại cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân đất nước qua hình ảnh những người chiến sĩ, những người nông dân bám mình trên đồng ruộng.

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…

Ở khổ thơ này tuy tác giả không nhắc đến màu xanh nhưng ta lại thấy màu xanh ngập tràn cả khổ thơ. Đó là màu xanh của lá cây mà những người chiến sĩ giắt đầy quanh mình ngụy trang, đó là màu xanh của nương mạ gieo ngoài đồng vào mùa xuân. Mùa xuân, người lính thì ra chiến trường, người nông dân thì ra đồng cày cấy và trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Mỗi người mỗi công việc nhưng ai cũng hối hả, ai cũng xôn xao. Họ tìm thấy niềm vui trong việc mà họ đang làm. Chính họ là những người đã đem mùa xuân đến cho Tổ quốc của chúng ta. Dấu chửng lửng ở cuối đoạn thơ như ý muốn nói mùa xuân ấy vẫn sẽ còn tiếp diễn đời này qua đời khác. Bốn câu thơ tiếp theo chính là thể hiện cho sự tiếp nối ấy:

Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước

Câu thơ là một sự tự hào của tác giả đối với đất nước. Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi vất vả và nhọc nhằn. Thế nhưng sau tất cả, tinh thần dân tộc vẫn giúp chúng ta đi lên. Tác giả ví “đất nước như vì sao” bởi lẽ những ngôi sao lúc nào cũng sáng lấp lánh trên đầu trời đêm. Đất nước dù khó khăn cũng sẽ vững vàng mà tiến lên phía trước.

Trước sự tự hào của bản thân về đất nước, nhà thơ đã muốn hóa thân mình thành con chim, thành nhanh hoa, thành nốt trầm để hiến dâng cho cuộc đời. Mong ước ấy thật giản đơn nhưng cũng thật vĩ đại:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Những điều nhà thơ mong muốn tưởng như rất bình dị nhưng chính những điều đó lại làm nên nét đẹp của cuộc đời, làm nên một bản hòa ca với những thanh âm trong trẻo. Thật đẹp biết bao tâm hồn của thi sĩ. Thật đáng quý biết bao khi ở trong hoàn cảnh như nhà thơ mà vẫn muốn được hiến dâng mình cho Tổ quốc. Mong ước của tác giả có lẽ cũng là mong ước chung của nhiều người

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Mỗi người trong chúng ta đều là một mùa xuân nhỏ. Từng mùa xuân nhỏ ấy lặng lẽ dâng cho cuộc đời một mùa xuân lớn, một mùa xuân chung cho tất cả. Chẳng cần phải là vĩ nhân, chỉ cần là những người dân bình dị sống hết mình cho quê hương, Tổ quốc thì dù đầu xanh hay tóc bạc cũng đã góp phần làm nên mùa xuân rồi.

Kết bài, một khúc hát quen thuộc của Huế vang lên. Nếu như Bác Hồ trước lúc đi xa muốn nghe một câu hát dân ca thì ở đây tác giả cũng ngân vang khúc ca xứ Huế. Điều đó cho thấy tình yêu của ông dành cho quê hương mình quả là bất diệt:

Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Bao nhiêu tâm tư, tác giả đều đã gửi gắm vào trong những vần thơ. Người ta thường nói lời của người trước khi mất là những lời chân thực nhất. Qua những vần thơ của Thanh Hải, người đọc hẳn cũng đã cảm nhận được cái chân thành trong con người ông. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ mang đến cho người đọc ý nghĩa của cuộc sống, mang đến cho con người ta khát vọng về niềm vui sống mãnh liệt. Viết về mùa xuân nho nhỏ nhưng lại nói lên được cái tình cảm lớn lao của con người, tác giả đã để lại trong lòng người đọc nỗi xúc động trào dâng.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2

Tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người luôn là một niềm cảm hứng bất tận trong thơ ca. Thế nhưng, những tình cảm yêu mến đó được xuất phát trong hoàn cảnh nào mới là điều mà bạn đọc đặc biệt chú ý. Có nhà thơ thể hiện trong những bài thơ ca về chiến tranh, có nhà thơ lại viết về nó trong thời bình. Còn Thanh Hải, ông đã viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ vào tháng 11 năm 1980, khi đang nằm trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha của Thanh Hải đối với vẻ đẹp của đất nước khi vào xuân, ước muốn hiến dâng trọn vẹn cuộc đời của mình cho quê hương, đất nước.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ:

"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc"

Nhà thơ đã gợi tả ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên thơ mộng với hình ảnh bông hoa tím. Giữa một dòng sông êm đềm, xuất hiện một bông hoa màu tím mang vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng. Động từ "mọc" được đảo lên đầu câu tạo sự ngạc nhiên, thích thú khi nhà thơ biết rằng đất trời đang vào xuân. Sự kết hợp giữa hai màu sắc: tím, xanh làm hiện lên một bức tranh thật đẹp và hài hòa. Trên nền bức tranh tĩnh động ấy là sự chuyển động của sự vật và con người:

"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"

Ở đây, ta có thể thấy hình ảnh bức tranh thiên nhiên được mở ra một cách rõ nét hơn, từ chiều dài của dòng sông đến chiều cao của bầu trời. Tiếng hót của chim chiền chiện vang lên cả một vùng trời, như lan tỏa tới con người sức sống mãnh liệt của tự nhiên. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Tôi đưa tay tôi hứng" cho thấy cái nét đặc sắc, nét độc đáo trong thơ của Thanh Hải. Âm thanh vốn là thứ chỉ nghe được, không nhìn thấy và nắm bắt được. Vậy mà nó lại hóa thành từng giọt long lanh, nhà thơ có thể hứng trọn những âm thanh ấy trong lòng bàn tay của mình. Động từ "hứng" cho thấy sự trân trọng, nâng niu của tác giả đối với những âm thanh của cuộc đời. Đó hẳn là thứ âm thanh tươi vui, rộn rã nhất khi xuân về.

Khép lại khổ thơ đầu với cảm nhận của tác giả khi mùa xuân tới, ta thấy ở khổ thơ thứ hai, mùa xuân hiện ra rõ nét hơn qua hình ảnh người lao động:

"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ"

Hình ảnh mùa xuân được tác giả lồng ghép trong công cuộc sản xuất và chiến đấu của dân tộc ta. Cả đất nước với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Người lính khoác trên vai màu áo xanh, cũng đồng thời khoác lên mình màu xanh của mùa xuân, khoác lên mình sức sống mạnh mẽ của mùa xuân để bảo vệ Tổ quốc. Còn đối với người nông dân, nơi làm việc của họ là ở ruộng đồng, họ đã cống hiến toàn bộ sức lực và sự chăm chỉ của mình để làm nên mùa xuân tươi đẹp cho đất nước. Ở nơi đó có đồng lúa chín vàng, có những cành lá đâm trồi nảy lộc. Lộc non, chồi biếc là sự tốt tươi, tràn trề sức sống của mùa xuân. Cả đất nước đang hăng hái làm việc trong khí thế khẩn trương nhất:

"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"

Điệp từ "tất cả", cùng với các từ láy "hối hả", "xôn xao" cho thấy toàn bộ người dân Việt Nam đang chung sức xây dựng một nền kinh tế, sản xuất mới để đất nước đi lên và phát triển. Dải đất hình chữ S của chúng ta đã từng có một quá khứ hào hùng trước khi có hiện tại:

"Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"

Bốn nghìn năm là quãng thời gian tồn tại của đất nước. Đó là một quãng thời gian rất dài với bao thế hệ đã đi qua. Nhà thơ thể hiện lòng biết ơn của mình với những thế hệ đi trước, những người đã vất vả, nỗ lực, đổ mồ hôi và xương máu để đất nước có được như ngày hôm nay. Trong những gian lao, đất nước vẫn cứ đi lên "Đất nước như vì sao". Đây là một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp, một vì sao sáng chói trên bầu trời gợi tả một đất nước Việt Nam đẹp đẽ, giàu mạnh với khí thế hào hùng. Dân tộc ta sẽ viết tiếp trang sử vàng chói lọi ấy.

Trong những năm tháng cuối đời phải nằm trên giường bệnh, nhà thơ Thanh Hải muốn được hóa thân để cống hiến cho đất nước:

"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến"

Điệp từ "Ta làm" thể hiện khao khát cháy bỏng, ước muốn mãnh liệt của nhà thơ Thanh Hải muốn được cống hiến cho cuộc đời. Nhà thơ nguyện hóa thân thành con chim, để được cất tiếng hát yêu đời mỗi buổi sớm mai khi đất nước tỉnh dậy. Nhà thơ muốn làm một cành hoa tỏa hương thơm ngát cho cuộc đời, để vẻ đẹp của nó khiến cho người ta say mê. Và cuối cùng, nhà thơ muốn hòa vào bài ca của dân tộc, nhưng Thanh Hải chỉ nguyện làm "Một nốt trầm" trong biết bao những nốt cao đẹp đẽ của cuộc đời. Ước muốn khiêm nhường của nhà thơ được thể hiện ở chỗ ông chỉ muốn cống hiến cho đất nước trong thầm lặng, là một nốt trầm nhỏ bé nhưng cũng đủ làm xao xuyến, lay động lòng người.

Và Thanh Hải muốn cống hiến cho đất nước bất cứ khi nào ông còn có thể:

"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"

Nhà thơ tự cho rằng cuộc đời của ông chỉ là một "Mùa xuân nho nhỏ" trong mùa xuân lớn của dân tộc, để ông được cống hiến trong âm thầm, lặng lẽ. Điệp từ "dù là" cho thấy tinh thần lạc quan, khí thế hào hùng, bất khuất của nhà thơ. Dù là trong hoàn cảnh nào, ông cũng nguyện vì đất nước mà cống hiến hết mình.

Toàn bộ bài thơ là mong muốn mãnh liệt cùng khát khao cháy bỏng của Thanh Hải dành cho cuộc đời. Đọc từng khổ thơ, ta mới thấy thêm yêu cuộc sống, thêm biết ơn những con người thầm lặng hy sinh vì đất nước như nhà thơ. Mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng cuộc sống, biết sắp xếp quỹ thời gian của mình để sống một cuộc đời thật ý nghĩa và hạnh phúc. Đó chính là thông điệp mà nhà thơ Thanh Hải muốn gửi gắm đến bạn đọc qua bài thơ.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 1

Huế là một thành phố thơ mộng, hữu tình, vẻ đẹp nơi Huế được kết tinh bởi những tấm lòng hồn hậu của con người nơi đây và thiên nhiên tươi đẹp, mơ màng đậm nét cổ kín. Và có lẽ, chính bởi nét thơ trong Huế mà có biết bao thi nhân dành cho Huế những vần thơ yêu thương nhất, xinh đẹp nhất để bày tỏ sự yêu mến và trân trọng.

Một trong những thi phẩm hay nhất phải kể đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ được tác giả viết vào những năm tháng cuối đời bằng tất cả sự nhiệt huyết, tin yêu. Khổ đầu bài thơ đã mang đến cho người thưởng thức một bức tranh mùa xuân trên đất Huế thanh bình và dạt dào sức sống:

“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Huế vốn được mọi người biết đến với dòng sông Hương trữ tình, dòng sông Hương ấy như một người thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng. Đưa sông Hương vào thơ có lẽ là điều không mới, nhưng cái độc đáo ở đấy là tác giả đã vẽ nên một sông Hương đặc biệt, một dòng sông có riêng một bông hoa tím biếc. Màu trong xanh của dòng nước cùng với màu tím của bóng hoa tạo nên sự hài hoà về màu sắc. Bông hoa ấy giữa dòng sông sâu vẫn vươn mình mạnh mẽ, toả ngát sắc hương đầy kiêu hãnh.

Phải chăng bông hoa ấy cũng chính là biểu tượng của những con người nơi mảnh đất kinh kỳ xứ Huế, giữa dòng đời đầy những vất vả, bon chen hoa vẫn giữ cho mình nếp sống thanh cao, vẫn giàu nghị lực và vươn mình toả sáng.

Bông hoa tím biếc ấy phải chăng chính là những thi nhân tài năng như Thanh Tịnh, Tố Hữu,…là những người lãnh đạo anh minh như Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Anh… Đất Huế mọc lên những con người tài ba, sáng suốt là niềm tự hào của muôn triệu người dân đất Việt qua bao thời gian. Động từ “mọc” được đặt đầu câu càng cho thấy được sự mạnh mẽ trong hành động ,trong ý chí của vạn vật và con người nơi đây.

Và mùa xuân nơi Huế đâu chỉ có sắc thôi, còn có cả những thanh âm của vạn vật nữa. Đó là tiếng chim của nàng chiền chiện đang hót chào xuân:

“Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Tiếng “ơi!” cất lên nghe sao mà thân thương đến vậy, đó là tiếng gọi mời hay lời xúc cảm gửi đến nàng chim. Nếu trong thơ Nguyễn Du, cánh én chao nghiêng báo mùa xuân về thì Thanh Hải lại chọn nàng chim chiền chiện với tiếng hót vang vọng. Tiếng hót ây làm rung động cả đất trời, cả không gian, cả tâm hồn người thi sĩ. Tiếng “chi” rất Huế được tác giả sử dụng càng làm cho lời thơ thêm xúc động, cánh chim chiền chiện cũng chính là một phần của Huế, mang cả tiếng nói và tâm hồn của Huế đấy thôi.

Bông hoa, dòng sông, tiếng chim,..vốn bình thường và nhỏ bé ấy lại góp nên một mùa xuân rực rỡ và căng tràn sức sống. Thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân lúc này tựa như một bức tranh chốn thiên đường, mời gọi mọi người thưởng thức và cảm nhận. Không cầu kỳ, chẳng hoa mỹ, xuân thấm vào vạn vật sự bình dị mà an yên.

Người thi sĩ muốn giữ lại hết tất thảy những yêu thương đó mà thốt lên:

“ Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Những giọt nhỏ, giọt nhỏ của hạnh phúc đong đầy, của sức xuân dào dạt, của những giọt sương long lanh buổi bình minh trong lành được tác giả giữ trọn vẹn.

Đưa đôi bàn tay dịu dàng hứng lấy những khoảnh khắc diệu kỳ của cuộc sống, nâng niu thứ âm thanh huyền diệu của tiếng chim, nâng niu thứ cảm xúc yêu thương và êm ái lúc này để thấy đời cho ta bao điều đẹp đẽ, để thấy tâm hồn mình được thanh lọc chỉ còn chất chứa những niềm thương. Dường như, lúc này đây, nhà thơ đang mơ, đang say, đang bị mê hoặc trước vẻ đẹp của nàng xuân kiều diễm của quê hương mình.

Khổ thơ chỉ với sáu câu thơ thôi mà gợi lên bao nhiêu nỗi bâng khuâng, tự hào và hạnh phúc. Hồn thơ da diết những yêu thương của người con xứ Huế Thanh Hải đã cho ta hiểu hơn những vẻ đẹp bình dị của quê hương, để ta biết nhìn lại mình, yêu thương và cống hiến cho quê hương, đất nước hôm nay.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 2

Nguyễn Du đã từng viết về mùa xuân thế này:

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Thật đẹp đẽ biết mấy! Mùa xuân – mùa khởi sự của vạn vật, của những điều tốt đẹp và may mắn. Và mùa xuân cũng là mùa khơi gợi lên trong lòng những người thi sĩ niềm cảm hứng thật bất tận. Có lẽ bởi vậy mà nhà thơ Thanh Hải trong những ngày cuối của cuộc đời đã viết lên một khúc ca về mùa xuân với vẻ đẹp đắm say lòng người, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên, khổ thơ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên với những nét vẽ tinh tế nhất:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được tác giả Thanh Hải sáng tác vào tháng 11 năm 1980 khi mà ông đang nằm dưỡng bệnh. Không thể bước ra ngoài, lại giữa cái lạnh giá của mùa đông, thế nhưng rạo rực trong tâm can ông là hình ảnh của mùa xuân, mùa xuân trên xứ Huế – quê hương thân thuộc của ông.

Những hình ảnh mùa xuân, âm thanh của xuân như ru ông vào bản tình ca đầy mê hoặc, và là nguồn cảm hứng để ông viết lên tác phẩm để đời của mình. Bài thơ chứa chan trong đó là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước của Thanh Hải, và hơn thế, nó ẩn chứa khát vọng được cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước vô cùng mãnh liệt của ông.

Mùa xuân nho nhỏ được mở đầu bằng hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên – một mùa xuân thật đẹp trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Một mùa xuân được gợi ra từ không gian rộng lớn với hoa, với dòng sông, với những chú chim và bầu trời cao rộng.

Và bức tranh xuân ấy thật ấn tượng khi xuất hiện ngay dòng đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa.

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Chỉ một bông hoa thôi, bông hoa báo hiệu xuân về, báo hiệu nàng xuân tới gõ cửa thế nhưng lại khiến cho con người ta xao xuyến không thôi. Bông hoa ấy mọc ngay giữa một dòng sông xanh mát, trong vắt đang lững lờ trôi ngang. Như nhiều người biết rằng, với Huế, màu tím là một thứ màu sắc cực kì quen thuộc, là nét đặc trưng chỉ riêng mình Huế. Những tà áo dài màu tím tung bay bên dòng sông Hương thơ mộng. Có lẽ chính vì thế mà bông hoa báo hiệu mùa xuân kia lại mang một màu “tím biếc”.

Ánh tím ấy lóng lánh, màu tím của hoa lục bình, ánh lên trong nắng, ánh lên giữa dòng sông. Chỉ một bông hoa nhỏ bé thôi mà ta nghe như mùa xuân đã cận kề, chực chờ ùa tới thật nhanh. Động từ “mọc” được Thanh Hải đảo lên đầu câu, tạo nên cho người đọc một sự bất ngờ, đột ngột thật khó tả. Một bông hoa như trồi lên từ dòng sông, một dấu hiệu mà khiến cho ai nhìn thấy cũng cảm thất bất ngờ, bất chợt như mùa xuân đến, cũng đột ngột khó quên như vậy.

Và dòng sông trong thơ Thanh Hải, hẳn là dòng sông Hương thì đang lững lờ trông trong màu xanh tha thiết, trải dài thật mênh mông, êm ả trước mắt chúng ta.

Chỉ với hai câu thơ mà ta thấy ở đây có nhiều màu sắc quá, rực rỡ quá! Sắc xanh, sắc tím, hòa quyện với nhau, ánh lên trong màu nắng sớm, dịu dàng như người con gái Huế. Xuân đến thật bất ngờ, nhẹ nhàng và đột ngột, chẳng hề báo trước. Nhà thơ chắc hẳn phải yêu Huế tha thiết bởi mỗi từ ngữ trong thơ của ông đều ánh lên một sắc Huế, một màu sắc rất riêng, không thể pha trộn được.

Nếu như hai câu thơ đầu, Thanh Hải dùng màu sắc, dùng hình ảnh đóa hoa để gợi tả mùa xuân thì hai câu thơ tiếp theo, ông lại dùng một dấu hiệu khác để thêm vào bức tranh xuân đến của mình, đó là tiếng chim ngân.

Tiếng chim cất lên lanh lảnh, vang vọng giữa bầu trời cao rộng. Tiếng chim ấy như tha thiết níu gọi mùa xuân về. Chẳng hề hoa mỹ khi cho rằng, chính những chú chim là người báo hiệu mùa xuân về nhanh nhạy nhất. Ở đây, Thanh Hải đã dùng loài chim chiền chiện làm người đưa tin của mùa xuân, loài chim ấy vô cùng thân thuộc với mỗi con người chúng ta. Mỗi tiếng hót của chúng như một khúc nhạc đồng quê vẳng lên trong tâm hồn mỗi con người.

Không chỉ thế, ông còn cất tiếng gọi những chú chim kia, một tiếng gọi nghe sao mà tha thiết, thân thương, đáng yêu như đối với một con người:

“Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời”

Chiền chiện cất tiếng hót vang cả bầu trời xanh, gọi xuân đến, thế nhưng, nhà thơ lại như đang trách cứ, hờn dỗi chúng rằng: “Hót chi mà vang trời”. Tiếng hót lảnh lót cả trời xanh khiến nhà thơ càng rạo rực, bởi ông muốn đứng dậy, bước ra ngoài thiên nhiên để tận hưởng không khí mùa xuân đang ngập tràn trong tâm hồn mình. Chữ “chi” được Thanh Hải dùng ở đây, nghe sao mà dạt dào, tha thiết, bởi nó mang âm hưởng của xứ Huế, của một người con cứ xứ Huế yêu thương.

Kết lại khổ thơ, hai câu thơ cuối như mang linh hồn của mùa xuân vào trong từng câu chữ. Có lẽ, với tất cả tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu mùa xuân của mình, Thanh Hải đã cô đọng lại, hàm súc nó trong hai câu thơ này:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

“Từng giọt long lanh” ở đây là gì thế? Là những giọt sương trong nắng sớm hay là những giọt mưa mùa xuân, hay phải chăng là giọt mùa xuân khi từng tiếng chim trên cao đang cô đặc lại, lắng xuống, sóng sánh rơi xuống trần gian này? Từng “giọt long lanh” ấy như là giọt mật của mùa xuân, cái mà hết thảy chúng ta đều mơ ước được chạm vào. Và nhà thơ cũng vậy, như một phản xạ tự nhiên, ông đưa tay “hứng” từng giọt mật ngọt ngào ấy – một cử chỉ thật tao nhã, đáng yêu.

Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để chúng ta cảm nhận được rằng mùa xuân không còn vô hình nữa, nó như một thực thể, một vật hữu hình mà con gái có thể chạm vào, sờ thấy và nếm thử.

Và hành động “hứng” mùa xuân ấy của nhà thơ là một hành động của một con người tha thiết yêu tha thiết thiên nhiên, muốn được tận hưởng mùa xuân thật trọn vẹn ngay từ những phút giây đầu tiên. Bởi mùa xuân này đang ở trong trí tưởng tượng của ông, khi tâm hồn ông đang bay bổng cùng làn gió xuân tươi mát.

Bức tranh mùa xuân thiên nhiên được Thanh Hải dựng lên bằng tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết. Mùa xuân với ông là những gì thân thuộc nhất, gần gũi, giản dị nhất trên quê hương thân yêu này. Và có lẽ, nhà thơ đang khao khát được ngồi dậy, được bước ra khỏi giường bệnh này để ra ngoài mà tận hưởng cái không khí mùa xuân kia, tận hưởng những hương những sắc tươi đẹp ngoài kia.

Thể thơ năm chữ, với nhạc điệu dịu dàng, dìu dặt như một khúc ca xứ Huế, tha thiết mà gần gũi đã giúp cho chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, Thanh Hải cũng sử dụng vô cùng tinh tế những hình ảnh thơ rất trong trẻo giản dị, cùng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến cho người đọc những ấn tượng thật sâu sắc.

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải trước mùa xuân. Nó không chỉ cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của mùa xuân trên quê hương ông, xứ Huế thân thương với sông Hương êm đềm, với những chú chim chiền chiện mà đồng thời nó còn diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết của một người con xứ Huế vào những ngày cuối của cuộc đời – nhà thơ Thanh Hải.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam thời kỳ đầu.

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.

2. Thể thơ

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thuộc thể thơ năm chữ.

3. Bố cục

- Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thien nhiên đất nước

- Khổ 2+3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước

- Khổ 4+5: Ước nguyện của tác giả

- Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế

4. Tóm tắt

Bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của tác giả được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

5. Phương thức biểu đạt:Tự sự, biểu cảm

6. Thể thơ:

Ngũ ngôn (5 chữ)

7. Giá trị nội dung

- Bài thơ là tiếng lòng yêu mến và gắn bó thiết tha với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn được cống hiến, đóng góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn lao của dân tộc. Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.

8. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca

- Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm

- Nhiều so sáng và ẩn dụ sáng tạo

Tài liệu có 14 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống