Sơ đồ tư duy bài Bố của Xi- mông (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 9 2.3 K 2

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Bố của Xi- mông hay nhất, gồm 9 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bố của Xi- mông Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Bố của Xi- mông dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:

BỐ CỦA XI- MÔNG

Bài giảng: Bố của Xi-mông

A. Sơ đồ tư duy Bố của Xi-mông

1

B. Tìm hiểu Bố của Xi-mông

I. Tác giả

- G. Mô- pa- xăng (1850-1893) tên đầy đủ là Guy de Maupassant

- Quê quán: vùng Normandie ở miền Bắc nước Pháp

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân

+ Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục

+ Hoạt động văn chương của ông bắt đầu khoảng giữa thời gian từ 1871-1880, bắt đầu bằng những bài thơ

+ Trong khoảng 1880-1891, ông đã sáng tác thêm khoảng 300 truyện ngắn, trong đó có rất nhiều truyện xuất sắc như: Người đã khuất, Món tư trang, Cái thùng con, …

II. Tìm hiểu tác phẩm

1. Thể loại: truyện ngắn

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Văn bản là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, lấy từ Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỉ XIX, bản dịch của Lê Hồng Sâm, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1986

3. Bố cục

+ Phần 1: Từ đầu ... khóc hoài: Nỗi tuyệt vọng của Xi-mông

+ Phần 2: Tiếp ... một ông bố: Xi - mông gặp bác Phi-lip và Phi-lip nhận sẽ cho em một ông bố

+ Phần 3: Tiếp ...bỏ đi rất nhanh: Phi-lip đưa Xi-mông về nhà em

+ Phần 4: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường Xi-mông khoe các bạn là mình đã có bố.

4. Giá trị nội dung

Qua diễn biến tâm trạng của ba nhân vật: Xi- mông, Blăng- sốt và Phi- líp, nhà văn gợi cho ta về lòng yêu bạn bè, mở rộng ra là yêu thương con người, sự thông cảm với những nỗi đau hoặc lầm lỡ của người khác

5. Giá trị nghệ thuật

Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả thật sâu sắc, tinh tế; hình thức giản dị trong sáng, thể hiện một nội dung cô đọng, sâu sắc.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Nhân vật Xi-mông

- Là một đứa trẻ đáng thương: “Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát gần như vụng dại”, là đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc

- Ý nghĩa và hành động: Bỏ nhà ra bờ sông định tự tử.

- Tâm trạng: cảm giác uể oải, buồn bã vô cùng, chẳng nhìn thấy gì và chẳng nghĩ gì?

- Cử chỉ, hành động: Khóc, nức nở, khóc hoài

- Về nhà, nhìn thấy mẹ: Nhảy lên ôm cổ mẹ, oà khóc

- Nói năng: ấp úng, ngắt quãng, không nên lời.

- Khi được bác Phi-líp nhận làm con: Kiêu hãnh, tự tin

+ Hết cả buồn.

+ Đưa con mắt thách thức lũ bạn.

- Nghệ thuật miêu tả, so sánh ⇒ Đây là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu và đáng thương nhưng đồng thời Xi – mông cũng là đứa rất có nghị lực

2. Nhân vật Blăng- sốt

- Được giới thiệu: là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị.

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị 

- Nỗi lòng với con:

+ Tái tê đến tận xương tuỷ, nước mắt lã chã tuôn rơi.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

⇒ Nghệ thuật miêu tả, tác giả đã cho thấy Blăng- sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

3. Nhân vật Phi - lip

- Được giới thiệu là một người:

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông: đặt tay lên vai em ôn tồn hỏi, nhìn em nhân hậu.

- Trên đường đưa Xi-mông về nhà nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị - “tự nhủ thầm”

- Hành động: Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

⇒ Nghệ thuật kể chuyện sinh động, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ đối thoại ⇒ Bác Phi-líp là người nhân hậu, giàu tình thương đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em.

IV. Bài phân tích

   “Khó tìm thấy một nhà văn nào tinh tế, sâu sắc, đôn hậu với nhiêu nỗi day dứt vê con người như Guy đơ Mô-pa-xăng”. Nhà văn ấy, dù chỉ sống cuộc đời ngắn ngủi hơn bốn mươi năm nhưng đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại, đặc biệt hơn cả là đóng góp về lĩnh vực truyện ngắn cho nền văn học Pháp và thế giới. Bố của Xi-mông với vẻ đẹp và sự ấm áp tình người, là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất.

   “Bố của Xi-mông” là câu chuyện kể về cuộc đời của Xi-mông, một cậu bé ngay từ khi sinh ra đã không được sống trong tình yêu thương của cha. Mẹ của cậu là bà Blăng-sốt. Thời còn trẻ bà là cô gái xinh đẹp nhất vùng, thế nhưng lại bị một gã đàn ông tệ bạc, lừa dối khiến bà đánh mất đi thanh xuân tươi đẹp của mình. Một mình sinh ra Xi-mông và hai mẹ con cùng nhau sống trong một ngôi nhà nhỏ. Dù hết mực yêu thương, chăm sóc con nhưng bà Blăng-sốt vẫn không thể nào bù đắp được sự thiếu sót tình cha. Xi-mông lớn lên, đến trường và bị các bạn trêu đùa, bỡn cợt vì không có cha. Sự thiếu hụt về tinh thần khiến cậu bé thấy chán nản với cuộc sống của mình. Rồi cậu bé gặp được bác Phi-líp, mong muốn bác làm cha của mình và bác đã đồng ý. Nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó, đám bạn trong trường học vẫn tiếp tục chế giễu cậu vì bác Phi-líp không phải chồng của bà Blăng-sốt thì làm sao có thể là cha của Xi-mông. Ở phần tiếp theo của truyện, bác Phi-líp đã cầu hôn Blăng-sốt và từ đó Xi-mông có một người cha thật sự.

   Vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trước hết được thể hiện trong khao khát tình cảm và sự che chở của cậu bé Xi-mông. Xi-mông, đứa trẻ không cha là nhân vật trung tâm không chỉ xuất hiện thường trực với tần số cao mà có tác dụng gắn kết các nhân vật còn lại như đám học trò nghịch ngợm, bác công nhân Phi-líp, người thiếu phụ rơi vào cảnh ngộ đáng thương. Xi-mông là đứa trẻ tự trọng, nhạy cảm, thông minh. Vì tự trọng em thấy việc không có cha của mình là nỗi bất hạnh lớn. Còn vì nhạy cảm và thông minh, Xi-mông bế tắc, không biết chia sẻ cùng ai ngoài việc tìm đến dòng sông để kết thúc cuộc đời bằng cái chết. Tất nhiên, những đặc điểm trên đây chỉ là một tính cách mới được hình thành. Bởi vậy những ý nghĩ đến với em, nhiều khi chỉ như cơn gió. Vừa khóc lóc xong, rất thèm được ngủ, nhưng bất chợt nhìn thấy một chú nhái màu xanh, Xi-mông đã quên hết mọi chuyện vừa qua, cả cơn thèm ngủ lúc này. Nhu cầu nghịch ngợm trỗi dậy ở em mạnh hơn bao giờ hết. “Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền” Ở đó có cả sự xuýt xoa và sung sướng đến bật cười khi tóm được con vật và nhìn nó “cố giãy giụa thoát thân” Nỗi bất hạnh, cơn thèm ngủ bỗng chốc qua đi không để lại dấu vết. Thậm chí, em còn nhớ rộng ra, liên tưởng miên man đến những thứ đồ chơi “làm bằng những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi”. Và kết thúc, không hiểu vì sao em lại nghĩ tiếp đến nhà mình, đến mẹ. Nhận được một bàn tay tin cậy của một người đàn ông tin cậy, bác Phi-líp (lúc đầu Xi-mông chưa biết đó là ai), em thấy cần phải giãi bày nỗi niềm cay đắng xót xa với giọng điệu hờn tủi vì oan ức của mình để “người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn” thấu hiểu. Sự tin cậy ấy thật hồn nhiên khi hai bác cháu trở về như một cuộc dạo chơi vui vẻ “người lớn dắt tay đứa bé” như cha và con chẳng còn một chút gì là ưu tư phiền muộn nữa. Nhu cầu cần có một người cha ở Xi-mông mạnh mẽ đến mức chỉ cần một cái gì đó na ná như thế, hoặc tưởng tượng ra như thế, em đã hạnh phúc lắm rồi. Ảo tưởng của Xi-mông chỉ hoàn toàn biến mất khi em trở về với thực tại, một thực tại tàn nhẫn, phũ phàng qua câu nói và giọng nói của người thợ mới quen với mẹ Xi-mông: “Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông” (Trong trí óc tuy còn non nớt của mình: Xi-mông cảm thấy mình đâu có bị lạc vì quên đường, mà em đang đứng trước một ngã ba không biết rõ con đường tiến thoái). Nhưng hi vọng ở em không tắt. Để giải thoát cho cảnh ngộ của mình, cũng là của mẹ (vừa hôn con vừa khẽ tuôn rơi nước mắt), một câu hỏi vụt hiện lên như một chiếc phao cứu người chết đuối lúc này là: “Bác có muốn làm bố cháu không?” với bao tha thiết, hồi hộp, lo âu. Thời gian như ngừng lại, như nín thở. Phải đến lúc, bác Phi-líp đồng ý, đồng ý như một giao kèo, một cam đoan đồng thuận, Xi-mông mới thật yên tâm. “Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu” Lần đến trường sau đó, Xi-mông đã trở thành một con người khác hẳn, đầy tự tin. Lời em nói với “thằng kia” không phải là câu nói thường tình. Đó là bao nhiêu căm hờn, uất ức bật ra. Xi-mông “quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá” những câu trả lời về bố mình là ai (dù em vì vội quên không hỏi họ của người ấy): “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp”. Trong ca dao Việt Nam, có một câu hài hước nhằm đả kích những ông thầy bói nói dựa ngày xưa “Số cô có mẹ có cha - Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông”. Nhưng, thực tình, nó đâu phải là vô nghĩa. Bởi trong cuộc đời này còn có bao nhiêu kẻ mồ côi cha hoặc mẹ (thậm chí cả hai). Câu nói hãnh diện của Xi-mông có sức sâu xoáy vào lòng người chính là những khát khao thật giản dị, thật bình thường là được có mẹcó cha như mọi người trong thiên hạ mà thôi. Tính nhân văn ở cách nghĩ trên đây còn là ước mơ của loài người mãi mãi. 

   Cùng với những vẻ đẹp ấm áp về tình người ấy, trái tim người đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp từ chị Blăng-sốt, người trót lầm lỡ nhưng là một người mẹ rất mực thương con, một người phụ nữ nền nếp, trung hậu. “Chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” nhưng bị lừa dối nên sinh ra bé Xi-mông và khiến cho Xi-mông trở thành đứa trẻ không có bố. Chị là người phụ nữ có hoàn cảnh thật đáng thương, vì “tuổi xuân đã lầm lỡ” mà giờ đầy chị phải sống trong áp lực của định kiến xã hội và những lời đồn đại. Thế nhưng, vượt lên hoàn cảnh ấy, chị Blăng-sốt có một nghị lực sống phi thường. Chị có một “ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Ngôi nhà ngăn nắp, gọn gàng như chính con người chị đã khiến cho không ai có thể bỡn cợt được. Chị là một người mẹ yêu thương con bằng cả trái tim. Khi ôm bé Xi-mông vào lòng, đôi má chị “đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con, hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Đó là tình thương con của một người mẹ lầm lỡ, chị hổ thẹn, lặng ngắt, quằn quại trước nỗi tuyệt vọng của con trong khi chính chị, cũng là nạn nhân. Trước câu hỏi ngây thơ của con, chị dường như không thể đứng vững được nữa, chị “dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Chính đức hạnh, tình mẫu tử thiêng liêng trong con người chị đã khiến bác thợ rèn Phi-líp hiểu bản tính chị không phải là người lẳng lơ, phóng túng. Trong lần lầm lỡ của tuổi trẻ, chị đáng thương hơn là đáng trách. Với vẻ nền nếp, trung hậu và tấm lòng yêu thương con hết mực chị là hiện thân của một người phụ nữ mẫu mực và là một người mẹ hiền lương.

   Những vẻ đẹp ấm áp tình người ấy được nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng thể hiện bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Nhà văn đã tinh tế nhận ra và thể hiện sắc nét tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp, qua đó đề cập đến vấn đề tâm lí gia đình của con người, vai trò của bố trong cuộc đời con người. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy cũng được khắc họa trong Số phận con người, một truyện ngắn viết về chiến tranh của nhà văn Nga M. Gorki. Truyện không kết thúc ở nỗi trầm buồn khi An-đrây đêm nào cũng “chiêm bao thấy người thân quá cố” mà tái hiện cảnh mùa xuân, dòng sông, con đường, khi An-drây nhận nuôi em bé mồ côi, khi hai con người xa lạ trở nên thân thiết. Dường như mỗi đứa trẻ khi “sống bên cạnh bố” để có được sức mạnh diệu kì để “khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường”. Hơn tất cả, tình cảm thể hiện ở cả hai tác phẩm không chỉ là tình phụ tử, mà còn là sự kết nối giữa những con người với con người trong tình yêu thương. Đồng thời, qua đó nhắc nhở chúng ta yêu thương bạn bè, mở rộng là tình yêu thương con người, sự đồng cảm và sẻ chia với những người bất hạnh, với những khổ đau và lỗi lầm của người khác.

   Đọc “Bố của Xi-mông” người đọc phải tự hỏi Mông-pa-xăng đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, khổ đau trong cuộc đời thì mới có thể viết nên tác phẩm cảm động như vậy. Tác phẩm giống như tiếng nói nhân đạo của nhà văn đồng thời nó cũng thay cho thông điệp: “tất cả đứa trẻ sinh ra đều cần được sống trong tình yêu thương của cả cha và mẹ”.

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. Câu chuyện được kể lại một cách mạch lạc, chủ động, không rườm rà. Tất cả đều xoay quanh một số đối thoại không nhiều giữa Xi-mông và bác công nhân; xoay quanh quan hệ sở hữu: Có (bố) – Không có (bố). Quan hệ có – không có được xây dựng và giải quyết theo lô-gic của trẻ thơ, không cường điệu, không pha tạp. Tất cả đều hồn nhiên ngây thơ và Xi-mông hiện ra một cách ngộ nghĩnh đáng yêu. Đó cũng chính là chất keo quý giá gắn kết mọi người trong xã hội, nó xoa dịu nỗi đau người này, đưa lại yêu thương cho người kia. Bố của Xi-mông là câu chuyện về một mảnh đời đặc biệt của trẻ thơ, là lời nhắn nhủ mọi người hãy biết cảm thông, chia sẻ với nỗi đau của những con người chẳng may lầm lỗi. 

(Theo Lê Nguyên Cẩn, trong Phân tích – bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài (ở trường THCS))

2. Thơ:

NHÀ KHÔNG CÓ BỐ

 

Nhà không có bố buồn sao

Cái đinh cũng thiếu, con dao thì cùn

Bơm xe chẳng hiểu cái jun

Rát tay bật lửa đá cùn, xăng khô…

Không có bố không thì giờ

Bữa ăn sớm muộn chẳng chờ, chẳng mâm

Ngày đông gió bấc mưa dầm

Đậy che mái giột âm thầm mẹ con

Chẳng vui tiếng điếu rít giòn

Bia không mua uống em còn bán chai

Nước đun sôi để nguội hoài

Nhà không có bố biết ai uống trà?

Cho dù bãi mật phù sa

Mà không bên lở chẳng là dòng sông.

(Nguyễn Thị Mai, Thả diều, NXB Kim Đồng)

Sơ đồ tư duy Phân tích Bố của Xi-mông

Phân tích Bố của Xi-mông hay nhất ( 3 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích Bố của Xi-mông

1. MỞ BÀI 

- Giới thiệu sơ lược tác giả, tác phẩm:

+ Guy đơ Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XIX, một bậc thầy về truyện ngắn với nội dung phản ánh sâu sắc hiện hiện thực xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

+ Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi-mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp

2. THÂN BÀI 

a) Luận điểm 1: Xi-mông - một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng đầy nghị lực

- Xi-mông là một đứa trẻ đáng thương:

+ Một bé trai độ 7 - 8 tuổi, hơi xanh xao, rất sạch sẽ nhưng có vẻ nhút nhát.

+ Không biết bố là ai.

+ Bị lũ bạn trêu chọc, em rất đau khổ.

- Tâm trạng ở bờ sông:

+ Xi - mông ra bờ sông định tự tự.

+ Trước cảnh đẹp, trời ấm, ánh nắng mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như ánh gương,... làm em quên đi chuyện đau khổ, chỉ muốn ngủ rồi muốn chơi đùa.

+ Em đuổi theo con nhái rồi vồ hụt, tóm được hai đầu chân sau, rồi bật cười. -> Tâm trạng vui đùa, bị cuốn hút bởi thiên nhiên.

+ Em nhớ mẹ, em lại khóc

-> Tâm trạng của một em bé hiện ra qua cảnh thiên nhiên đẹp, hành động và cử chỉ rất phù hợp với tâm lí lứa tuổi.

- Diễn biến tâm lí lứa tuổi được miêu tả tài tình:

+ Tâm trạng khi gặp bác Phi - líp và về nhà

  • Như được dịp trút nỗi lòng đau khổ
  • Mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào, nấc buồn tủi.

-> Sự bất lực, tuyệt vọng của đứa bé.

+ Khi gặp mẹ: em la khóc, đau đớn, buồn tủi.

+ Hỏi bác Phi-líp: "Bác có muốn làm bố cháu không?" -> mong muốn có bố rất mãnh liệt.

=> Lời đối thoại rất tự nhiên, khát khao, ước mơ rất đáng thương, ngây thơ của Xi - mông dù là những điều bình dị nhất.

+ Sáng hôm sau đến trường.

  • Xi-mông quát vào mặt chúng: "Bố tao tên là Phi - líp" -> sự hãnh diện, tự hào.

=> Niềm vui, niềm tự hào lớn cho em sức mạnh để sống và học tập.

b) Luận điểm 2: Bác Phi-líp - người thợ rèn có lòng nhân hậu, thương người, đáng quí trọng

- Được giới thiệu là một người:

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Vẻ mặt nhân hậu, làm nghề thợ rèn.

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông:

+ Đặt tay lên vai em, an ủi và đưa em về.

+ Lúc đầu suy nghĩ có thể đùa cợt với chị Blang - sốt nhưng khi gặp bác hiểu chị là người tốt, không thể đùa được.

=> Thương Xi-mông, cảm mến chị Blang-sốt.

- Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

=> Bác Phi-líp là người có lòng nhân hậu, thương người, đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em, thật đáng quí trọng.

c) Luận điểm 3: Blăng-sốt - người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

- Từng là cô gái đẹp nhất vùng vì nhẹ dạ nên đã một lần lầm lỡ.

- Là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị,

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị… như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa. -> Thái độ nghiêm nghị khiến người khác không thể đùa cợt.

- Nỗi lòng với con:

+ Mặt đỏ bừng tái tê đến tận xương tủy, hôn con, nước mắt lã chã.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

-> Thương và hiểu lòng con.

=> Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí cho thấy Blăng-sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm, hoàn cảnh rất cần sự cảm thông.

3. KẾT BÀI 

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:

+ Nội dung: Khắc họa hình tượng cậu bé Xi-mông, cảm thông với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác, ca ngợi tình yêu thương và lòng nhân hậu của con người.

+ Nghệ thuật: Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật đặc sắc.

 

Bài văn mẫu Phân tích Bố của Xi-mông – mẫu 1

Bố của Xi-mông là một truyện ngắn hiện thực khá hay của Guy-đơ Mô-pa-xăng. Truyện này nói lên nỗi đau khổ của em bé Xi-mông và mẹ em vì những thành kiến, thói tục cổ lỗ, khi Xi-mông không rõ bố mình là ai và niềm sung sướng tràn ngập khi em được nhận chú Phi-lip làm bố. Đặc biệt, truyện đã đề cao tấm lòng nhân hậu của Phi-lip người thợ rèn đáng quý mến.

Hành động nhận làm bố Xi-mông của chú bị một số người cười chê là khờ dại. Thật ra, đó là một việc làm nhân đạo, cao cả. Vì chính việc làm này đã mang lại nhiều sung sướng, hạnh phúc cho Xi-mông, cứu em thoát khỏi cái chết. Bởi lẽ ngay từ ngày đầu tiên đi học ở trường Xi-mông đã bị đám bạn bè độc ác, vô ý thức đùa cợt, trêu chọc về việc em không có bố. Bị chế giễu, bị đánh đập, Xi-mông tức giận ném đá vào bọn chúng rồi bỏ đi ra bờ sông. Em đã khóc ròng và nghĩ đến việc nhảy xuống sông cho chết đuối. Em ngắm đàn cá bơi lội, em bắt con nhái chơi, nhưng cái ý định tự tử ấy cứ lởn vởn mãi.Em lại khóc người em cứ run lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được bài kinh vì những cơn nức nở lại dồn dập, xốn xang, choáng ngợp lấy em. Đang lúc đau khổ như thế thì Xi-mông gặp chú Phi-lip. Biết được tình cảnh của em, chú ấy đã dẫn em về nhà. Trước mặt mẹ Xi-mông chú đã trả lời câu hỏi của em mạnh mẽ và dứt khoát: "Có chứ, chú có muốn". Thế là lần thứ nhất chú Phi-lip đã cứu Xi-mông ra khỏi cơn tuyệt vọng giành em ra khỏi tay thần chết.Tuy nhiên đối với Phi-lip, lúc đầu chú nghĩ đây là một việc làm nhất thời, cố để an ủi cho Xi-mông trong phút giây thoát khỏi cơn tuyệt vọng. Nhưng sau đó, đến lúc Xi-mông đến nói với chú tại lò rèn: Bố Phi-lip này lúc nãy thằng con bác Mi-cốt bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi vì bố không phải là chồng của mẹ. Lúc này, không còn là nhất thời nữa rồi! Vấn đề đặt ra trước chú Phi-lip lúc này là một vấn đề nghiêm túc. Xi-mông lại có thể đứng trước tình thế tuyệt vọng một lần nữa, nếu như chú Phi-lip xem lời nói của mình lần trước là lời nói đùa.

Chính các bác thợ rèn đồng nghiệp của chú Phi-lip, những vị thần khổng lồ ấy đã giúp chú vượt qua định kiến đối với mẹ Xi-mông. Chị ta lầm lỗi không phải là do lỗi ở chị ta, để đi đến quyết định cuối cùng: ngỏ lời cầu hôn với người phụ nữ đáng thương mến này. Việc làm của chú Phi-lip đã mang lại cho Xi-mông hạnh phúc thật sự, cậu bé nhờ có đủ nghị lực để tuyên bố với các bạn cùng lớp: Bố tớ là Phi-lip Reemi (bác thợ rèn) và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ.

Chú Phi-lip và các bác thợ rèn trong truyện ngắn này được Guy đờ Mô-pa-xăng miêu tả như các vị phúc thần. Chú đã giải thoát cho Xi-mông khỏi nỗi đau khổ của em và mang lại cho em hạnh phúc. Việc làm ấy cũng giúp cho mẹ Xi-mông thoát khỏi đau khổ do lầm lỡ. Chú Phi-lip và các bác thợ đã nói và làm theo tiếng gọi của lương tri, thoát khỏi những thành kiến hẹp hòi, cổ hủ. Việc làm của họ như là đại diện cho sự công bằng, cho lòng nhân ái, giúp cho các nhân vật bị đau khổ, bất hạnh khỏi đau khổ và có hạnh phúc.

Hình ảnh của họ thật đẹp, thật hào hùng mà cũng nhân hậu xiết bao. Có ý kiến cho rằng việc làm của chú Phi-lip: nhận làm bố của Xi mông và làm chồng của mẹ em bé này thật là khờ dại. Không đúng. Phải nói đây là một việc làm nhân đạo, cao cả, xuất phát từ một tấm lòng yêu thương rộng lớn, đồng cảm sâu sắc đối với cảnh ngộ đáng thương mến của Xi mông và của em bé này. Chú đã khơi dậy trong lòng người đọc tình cảm quý mến đối với việc làm tốt đẹp, thấm đẫm tình người của một người lao động nhân hậu, cao cả.

Bài văn mẫu Phân tích Bố của Xi-mông – mẫu 2

Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế?

Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em - chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng" đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”, phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố. Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ "'xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố".

Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “giương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố". Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, râu tóc đều quăn… nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã "lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em - chị Blăng-sốt. Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố". Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.

Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn" thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc" (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”: “Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ! Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ”, “Có bố thì hạnh phúc”. 

Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và cũng rất đáng yêu!

 

Tài liệu có 9 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống