Sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 8

Tải xuống 9 7.8 K 10

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 tài liệu sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Hịch tướng sĩ Ngữ văn lớp 8.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 8:

Hịch tướng sĩ

Bài giảng: Hịch tướng sĩ

A. Sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ

Sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Hịch tướng sĩ dễ nhớ, ngắn gọn

B. Tìm hiểu bài Hịch tướng sĩ

I. Tác giả

- Trần Quốc Tuấn (1231? -1300) còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương

- Cuộc đời:

 + Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc

 + Năm 1285 và 1287, quân Mông Nguyên xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân. Cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.

 + Tác phẩm nổi bật: Binh thư yếu lược

II. Tác phẩm

1. Thể loại: Hịch

2. Hoàn cảnh sáng tác

Được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285): Khi giặc Mông – Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.

3. Bố cục

Chia làm 3 phần:

   + Phần 1: Từ đầu đến “lưu tiếng tốt”: Nêu tên những trung thần nghĩa sĩ được sử sách lưu danh.

   + Phần 2: Từ tiếp đến “ta cũng vui lòng”: Tình hình đất nước hiện tại và nỗi lòng của người chủ tướng.

   + Phần 3: Còn lại: Phê phán những biểu hiện sai trái trong hàng ngũ quân sĩ.

4. Giá trị nội dung

Bài Hịch phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thể hiện lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.

5. Giá trị nghệ thuật

- Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc

- Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao

- Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm

- Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Nêu gương sáng của trung thần nghĩa sĩ trong sử sách

- Các gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Kính Đức, Mông Kha, Cốt Đãi Ngột Lang... Địa vị khác nhau song đều trung thành, không sợ nguy hiểm, bỏ mình vì chủ tướng, vì nước.

⇒ Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.

⇒ Làm nổi bật tinh thần quên mình vì chủ, vì vua, vì nước.

2. Tình hình đất nước hiện tại, nỗi lòng của chủ tướng

a. Tình hình đất nước hiện tại

- Tội ác và sự ngang ngược của giặc: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng… ⇒ Bạo ngược, tham lam, vô đạo.

- Nghệ thuật:

+ Ngôn từ gợi hình, gợi cảm: Nghênh ngang, uốn lưỡi

+ Hình ảnh ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó

+ Giọng văn mỉa mai, châm biếm

⇒ Khắc hoạ sinh động hình ảnh kẻ thù, gợi cảm xúc căm phẫn cho người đọc, bộc lộ sự căm ghét, khinh bỉ

b. Nỗi lòng chủ tướng

- Được thể hiện rõ nét qua phần điệp với những câu văn biền ngắn gọn đối xứng cân chỉnh: “Ta thường tới bữa quên ăn…ta cũng cam lòng”

- Nghệ thuật:

   + Dùng nhiều dấu phẩy và dấu chấm phẩy

   + Nhiều động từ chỉ trạng thái và hành động mãnh liệt như: quên ăn, vỗ gối, xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu…

   + Giọng văn thống thiết, tình cảm

⇒ Tác dụng:

   + Cực tả niềm uất hận dâng lên trong lòng người chủ tướng

   + Khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.

3. Chủ tướng phê phán biểu hiện sai lầm trong hàng ngũ quân sĩ, bộc lộ nỗi lòng mình và kêu gọi tướng sĩ

a. Phê phán sai lầm của tướng sĩ

- Phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh đất nước.

- Ham thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, ruợu ngon...

- Thái độ phê phán dứt khoát ⇒ Phê phán nghiêm khắc thái độ bàng quan, vô trách nhiệm, vong ân bội nghĩa; lối sống hưởng lạc, chỉ lo vun vén hạnh phúc cá nhân.

b. Nỗi lòng người chủ tướng

- Khuyên:

+ Quân sĩ: phải biết lo xa, nêu cao cảnh giác, tăng cường luyện tập, học tập “Binh thư yếu lược”

+ Kết quả: có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt... lưu thơm

⇒ Tốt đẹp: đất nước còn, gia đình còn, bổng lộc có, danh dự được lưu truyền (cả vật chất và tinh thần)

⇒ Giúp tướng sĩ nhận thức rõ đúng- sai, lợi - hại.

⇒ Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người khi nhận ra cái sai, thấy được điều đúng.

   + Biết lo xa

   + Tăng cường võ nghệ

⇒ Chống giặc ngoại xâm.

- Chủ tướng khích lệ tinh thần trung quân ái quốc.

- Cùng cảnh ngộ: khích lệ lòng ơn nghĩa, thuỷ chung của người chung hoàn cảnh.

- Thể hiện thái độ:

   + Khuyên răn, bày tỏ thiệt hơn

   + Nghiêm khắc cảnh báo

   + Mỉa mai, chế giễu

c. Kêu gọi tướng sĩ

- Vạch rõ ranh giới 2 con đường chính- tà, sống - chết.

⇒ Thái độ dứt khoát, cương quyết. Nhằm loại bỏ thái độ do dự trong tướng sĩ.

- Khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.

⇒ Trần Quốc Tuấn là vị tướng yêu nước, có trách nhiệm cao đối với vận mệnh của dân tộc, căm thù giặc sâu sắc.

IV. Bài phân tích

Trong nền văn học Việt Nam có những tác phẩm ra đời để rồi trở thành những áng văn bất hủ cùng thời đại, trải qua biết bao nhiêu sóng gió của thời gian nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị đến tận ngày nay. Cùng với tác phẩm Nam Quốc Sơn HàBình Ngô đại cáoHịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng là một tác phẩm, một áng văn bất hủ để đời ẩn chứa tấm lòng yêu nước tha thiết của Trần Quốc Tuấn. Qua tác phẩm ta không chỉ thấy được tài cầm quân của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mà còn cảm nhận được tài năng văn chương của vị chủ tướng này.

Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Hịch thường được viết theo hình thức văn biền ngẫu, kết cấu chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn hùng hồn. Bài "Hịch tướng sĩ" có những sáng tạo linh hoạt trong cấu trúc, bao gồm có hai phần: nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Đây là áng văn chính luận xuất sắc, lời văn thống thiết, hình ảnh giàu biểu cảm, mang đậm chất trữ tình.

Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu các gương sáng trong lịch sử. “Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.” Có người làm tướng, có người làm quan nhỏ nhưng tất cả sẵn sàng chết vì vua, vì chủ, vì đất nước, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Qua đó tác giả muốn khích lệ tinh thần, lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ.

Đoạn văn tiếp theo, từ việc nêu các tấm gương sáng trong sử sách, tác giả chỉ ra tình hình đất nước hiện nay. Với một giọng điệu xót xa, đau đớn, căm phẫn ông đã tái hiện những sự việc đang diễn ra ở đất nước ta dưới vó ngựa xâm lăng của quân Nguyên Mông, khiến cho bất cứ những người dân yêu nước nào cũng phải ngậm ngùi, đau xót:"... Ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!". Người đọc dễ dàng nhận thấy, dưới ngòi bút của tác giả, ông đã thú vật hóa chân dung và bản chất của bọn giặc, khiến bọn chúng hiện lên vừa đớn hèn nhu nhược, vừa tham lam ích kỉ, vừa mọi rợ, tàn ác đến mất hết tính người. Lời văn tràn đầy niềm phẫn uất, căm tức đến tuyệt đỉnh, bộc lộ tâm thế nhất quyết không đội trời chung với giặc và ẩn sau đó là khí thế chiến đấu, tinh thần yêu nước mãnh liệt, quật cường của vị chủ tướng thống lĩnh đại quân. Những lời văn chắc nịnh ấy như vang lên một sự căm thù đến tột đỉnh kẻ thù của mình, tác giả đã có nhưng lúc quên ăn, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, ý chí kiên cường quyết tâm của Trần Quốc Tuấn cũng thể hiện rõ sự căm thù đó. Dẫu có phải phơi xác ngoài chiến trường thì cũng nguyện xin làm để đánh đuổi bọn xâm lược dê chó kia.

Tấm lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn được thể hiện rõ nhất qua hai câu văn: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Các câu văn được viết theo hình thức thể văn biền ngẫu, câu văn ngắn dài sóng đôi, kết hợp với giọng điệu dồn dập, gấp gáp đã thể hiện được lòng căm thù giặc, khí thế anh dũng và tinh thần chiến đấu mạnh mẽ của tác giả. Ông nguyện xả thân, không tiếc thân mình, sống chết vì đất nước. Ta đọc ở đây một trách nhiệm công dân cao độ, một ý chí khát vọng lập công mạnh mẽ của một bậc trượng phu có lý tưởng sống và chiến đấu cao đẹp, thiêng liêng: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Sau đó, nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Tác giả nêu lên sự thiệt hơn công bằng trong quân đội, đói thì cho cơm ăn, đi thủy thì cho thuyền mà đi bộ thì cho ngựa…nhưng nay chủ nhục mà quân không biết lo, thấy nước nhục mà quân không biết thẹn. Tác giả tiếp tục nêu những sai lệch trong quân đội để cảnh tỉnh binh sĩ.  Những sai lệch ấy là có người thì mê rượu, ờ bạc, quyến luyến vợ con, làm ruộng vườn để cung phụng gia đình, có kẻ lại ham săn bắn mà nhác việc quân. Đó là tất cả những sai lệch trong quân đội rất đáng lo ngại nếu bất chợt giặc Nguyên Mong sang thì nhưng sai lệch ấy, việc làm ấy có thể cứu đất nước được hay không? Đợi đến lúc đó vợ con cũng không còn để mà quyến luyến nữa, đất nước cung chẳng phải của mình mà tiếng nhơ nhuốc còn để lại mãi đời sau, lúc đo thì còn vui được nữa hay không. Từ đó Trần Quốc Tuấn nêu lên những việc cần phải làm ngay chính lúc này là tập trung vào luyện binh pháp, để đánh đuổi quân Mông. Và việc đó đồng nghĩa với việc những người thân hay những thú vui của họ sẽ vẫn còn, lúc ấy vui cũng chưa muộn “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (…) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”, “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên...”. Từ những lời nói ấy ta như thấy được Trần Quốc Tuấn đã rất khôn khéo với những lời trách móc hay cũng như giáo huấn binh sĩ của mình. Nhưng lại có lúc lời nói ấy không giống của một chủ tướng mà giống người cùng cảnh ngộ với họ hơn. Có thẻ thấy tác giả là một vị tướng tài ba thấu hiểu hết những buồn vui cũng như thú chơi của binh sĩ để từ đó mà chấn chỉnh lại. Trước những sai lệch thì như trách móc nhưng sau đó không phải là hình phạt như chém đầu hay đánh đập mà chỉ là những lời khuyên. Điều đó góp phần cho quân sĩ không mất đi người nào mà còn được lòng người, dùng biện pháp mạnh bây giờ chỉ khiến cho người ta thêm phần không nể phục. Nghệ thuật tương phản đã cho thấy hai viễn cảnh đối ngược nhau, Trần Quốc Tuấn đã để cho các tướng sĩ tự chiêm nghiệm, suy ngẫm về sự mất – được, hại – lợi, sáng – tối mà tự chọn cho mình một đường đi đúng đắn.

Kết thúc bài hịch, tác giả nêu lên một tư tưởng giáo dục, một nhận thức đúng đắn sâu sắc, cụ thể, đó là "đạo thần chủ". Yêu nước, trung thành với chủ phải được thể hiện bằng hành động, chăm chỉ tập luyện binh pháp và rèn luyện binh thư. Còn nếu lười biếng, trốn tránh tập luyện, trái lời dạy bảo thì coi như nghịch thù. Đây không chỉ là lời tuyên chiến mạnh mẽ với giặc mà còn là lời bác bỏ với mọi tư tưởng đầu hàng, thỏa hiệp đình chiến. Thể hiện lòng quyết tâm, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, cháy bỏng không gì thay đổi được ở vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn.

Có thể nói bài hịch đã đạt tới trình độ mẫu mực của thể văn chính luận. Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, theo trình tự tăng tiến cho tới khi kết thúc tác phẩm. Giọng văn biến đổi linh hoạt: khi thì nhẹ nhàng trò chuyện tâm tình thân mật; khi lại đau xót uất ức, căm hờn; lúc lại hào sảng, tươi vui; khi lại nghiêm khắc, rắn rỏi. Ngoài ra, bài hịch còn sử dụng rất tài tình thể văn biền ngẫu với các cặp câu cân xứng nhịp nhàng, đăng đối hô ứng nối tiếp nhau trong văn bản, giúp ý tứ được tung hứng tài tình, thắt buộc chặt chẽ, dẫn dắt người đọc đến mục đích cuối cùng của người viết. Phép trùng điệp, liệt kê kết hợp với các câu hỏi tu từ càng làm tăng thêm sức biểu cảm cho bài hịch. Bên cạnh đó, ngôn ngữ hình ảnh bài hịch cũng rất phong phú, sinh động, giàu sức gợi (khi nói về bọn giặc, tác giả sử dụng ngôn ngữ vật hóa: uốn lưỡi cú diều, đem thân dê chó, đem thịt mà nuôi hổ đói...). Và trong bài, tác giả cũng sử dụng khá nhiều những điển cố, điển tích những rất dễ hiểu, hài hòa, tự nhiên...Tất cả đã góp phần làm nên thành công của bài hịch.

Bài hịch tuy ngắn gọn nhưng đã phản ánh được tinh thần của thời đại, hào khí Đông A. Hịch tướng sĩ chứa chan tấm lòng yêu nước, nỗi căm hận quân thù và tinh thần quyết thắng, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân ta trong công cuộc bảo vệ biên cương, bờ cõi, mà văn bản còn là một tác phẩm văn học, một áng văn chính luận mẫu mực, bậc thầy, rất xứng đáng là "áng thiên cổ hùng văn" của muôn đời.

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. Khi đọc Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và một số thơ văn thời đại nhà Trần, các cụ ta xưa thường bảo: đó là những áng văn tỏa rạng hào khí Đông A (hào khí Đông A là khí thế, là tinh thần tự cường, tự chủ của triều đại nhà Trần). Đọc Hịch tướng sĩ, chúng ta cần cảm nhận thật thấm thía tấm lòng của Hưng Đạo Vương, vị chủ tướng yêu nước thiết tha, thương dân, nhân hậu vô cùng.

(Vũ Dương Qũy, Thơ văn Lý Trần, NXB Giáo dục, 1999)

Sơ đồ tư duy Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn

Phân tích Hịch tướng sĩ hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn

I. Mở bài

- Giới thiệu về hoàn cảnh ra đời và khái quát giá trị tác phẩm:

- Năm 1285, vào trước khi diễn ra cuộc kháng chiến Mông- Nguyên, Trần Quốc Tuấn đã viết nên bài "Hịch tướng sĩ" nhằm khích lệ tinh thần đấu tranh và học tập của các tướng sĩ trong quân đội.

Đây thực sự là một áng văn bất hủ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước và lòng quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược.

II. Thân bài

- Dẫn ra tên tuổi của các vị anh hùng nghĩa sĩ trung quân ái quốc -> Nêu gương cho các nghĩa sĩ tự nhìn lại mình, khẳng định nhân tài , hào kiệt của đất nước.

- Nêu rõ thực trạng của đất nước giữa buổi thời loạn lạc, quân giặc tàn ác.

- Nỗi đau đáu, lo lắng cho vận nước, cho nhân dân đêm ngày của vị tướng lĩnh.

- Nhắc lại những ân tình của một vị lĩnh tướng với nghĩa quân của mình -> lên án, phê phán những hành động, ý nghĩ sai trái, vô trách nhiệm.

- Vạch ra những điều nên làm lúc bấy giờ.

- Nghệ thuật:

+ Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao

+ Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm

+ Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu

III. Kết bài

- Với những lời lẽ sắc bén, hợp lý, chân tình, Trần Quốc Tuấn đã lay động được tấm lòng của hàng ngàn nghĩa sĩ, thôi thúc họ sống và rèn luyện, chiến đấu hết mình vì nước Việt thân yêu.

Top 20 bài Phân tích Hịch tướng sĩ hay nhất (ảnh 1)

Bài văn mẫu: Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn – mẫu 1

Nhắc đến Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là nhắc đến một vị tướng kiệt xuất với khả năng lãnh đạo tài ba và tấm lòng yêu nước thiết tha. Bằng tài năng và bản lĩnh cầm quân của mình mà ông đã dành nhiều thắng lợi vẻ vang cho nhân dân nhà Trần. Năm 1285, vào trước khi diễn ra cuộc kháng chiến Mông- Nguyên, ông đã viết nên bài Hịch tướng sĩ nhằm khích lệ tinh thần đấu tranh và học tập của các tướng sĩ trong quân đội. Đây thực sự là một áng văn bất hủ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước và lòng quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược.

Mở đầu lời kêu gọi, tác giả đã dẫn ra hàng loạt các vị anh hùng nghĩa sĩ trung quân ái quốc như Kỉ Tín, Dự Nhượng, Do Vu, Kính Đức,.....Họ đã không ngại cái hi sinh cũng không tham thói nữ nhi, tửu sắc, một lòng phò trợ các vị vua, tướng lĩnh của mình. Đó còn là Vương Công Kiên lãnh đạo đội quân tuy nhỏ mà khiến quân Mông Cổ phải rút lui sau bao tháng cầm cự, là Cốt Đãi Ngột Lang xông pha nghìn trùng đi đánh bại quân Năm Chiếu.

Tất cả họ đều là những gương sáng, lưu danh sử sách muôn đời, từ trước đến nay, hào kiệt, anh tài đâu kể hết. Đó là một niềm tự hào của Trần Quốc Tuấn khi nghĩa về thế hệ đi trước đồng thời như một lời nhắc nhở, khích lệ các tướng lĩnh tự xem lại bản thân mình, cố gắng hết mình lập công danh cho đất nước, nhân dân.

Sau khi nêu gương các anh tài nghĩa sĩ, Trần Quốc Tuấn tiếp tục nêu rõ thực trạng của đất nước giữa buổi thời loạn lạc, quân giặc tàn ác :"Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột".

Sự căm phẫn tội ác tham tàn của bọn giặc khiến tác giả vạch trần sự bạc nhược, ích kỉ, đê hèn của chúng. Quân giặc ngang ngược coi trời đất bằng vung, chẳng màng đến đời sống khổ cực, lầm than của bao người mà nhẫn tâm bòn rút sức lực, của cải của nhân dân. Nỗi tàn ác ấy trời đất đã rõ, muôn người đều biết, vậy mà chúng vẫn điêu ngoa, xảo trá, điều đó càng khiến vị tướng đau đáu nỗi lòng, lo lắng cho vận nước, cho nhân dân: "Ta thường tới bữa quên ăn......ta cũng vui lòng". Một nỗi niềm khôn tả của tấm lòng kẻ yêu nước.

Vì thương dân, vì lo sợ rằng rồi quân giặc sẽ càng hống hách mà ngày đêm không ngủ được, lòng đau đớn thấy, mối hận quân thù càng ngày càng lớn. Ý thức dân tộc càng khiến vị tướng lĩnh thêm bản lĩnh, nguyện hi sinh cả thân xác mình để giết chết lũ quân thù ngạo mạn kia mới mãn nguyện, vui lòng. Vì đất nước yên bình thì tính mạng có đáng là bao, đó là một tâm hồn cao đẹp của một trung thần, hào kiệt.

Bằng giọng tâm tình và chân thành, tác giả nhắc lại những ân tình của một vị lĩnh tướng với nghĩa quân của mình. Ông xem họ như huynh đệ, như người thân ruột thịt, cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn, cùng nhau xông pha chiến trận, vui cười, ai cũng được đối đãi tử tế, chân tình biết bao: "Các ngươi ở cùng ta....ngày trước cũng chẳng kém gì".

Sau đó, Trần Quốc Tuấn thẳng thắn chỉ ra những điều đáng trách của các nghĩa sĩ, họ có những ý nghĩ tầm thường, thiếu trách nhiệm khi nghiễm nhiên ăn chơi, vui đùa trước cảnh nhân dân lầm thân, loạn lạc. Đồng thời, khẳng định những hậu quả vô cùng đau lòng khi giặc Mông xâm chiếm: "Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc...... các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?".

Bằng giọng văn nghiêm khắc, lời bày tỏ thống thiết, chân thành Trần Quốc Tuấn mong muốn chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của các nghĩa sĩ trong quân đội mình. Phải nhận thức đúng đắn vào trò và trách nhiệm của mình, hành động vì nghĩa lớn, vì việc trọng, không vì những đam mê, cám dỗ tầm thường mà bỏ bê đất nước, bỏ bê bản thân mình.

Từ đó, Trần Quốc Tuấn tiếp tục khuyên răn, giải thích, hướng dẫn những hành động cần phải làm, nên làm của các quân đội ta lúc bấy giờ với những thành quả đạt được nếu tích cực rèn luyện "Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù".

Bài hịch tuy ngắn gọn nhưng đã phản ánh được tinh thần của thời đại, hào khí Đông A. Hịch tướng sĩ chứa chan tấm lòng yêu nước, nỗi căm hận quân thù và tinh thần quyết thắng. Với những lời lẽ sắc bén, hợp lý, chân tình, Trần Quốc Tuấn đã lay động được tấm lòng của hàng ngàn nghĩa sĩ, thôi thúc họ sống và rèn luyện, chiến đấu hết mình vì nước Việt thân yêu.

Top 20 bài Phân tích Hịch tướng sĩ hay nhất (ảnh 2)

Bài văn mẫu: Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn – mẫu 2

Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.

Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạt tể phụ”.

Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đưa ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giặc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.

Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.

Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”.

Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.

“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, tên tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.

Video Phân tích Hịch tướng sĩ

Tài liệu có 9 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống