Sơ đồ tư duy bài Muốn làm thằng Cuội (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 8

Tải xuống 8 2.1 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 tài liệu sơ đồ tư duy bài Muốn làm thằng Cuội hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Muốn làm thằng Cuội Ngữ văn lớp 8.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Muốn làm thằng Cuội dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 8:

Muốn làm thằng Cuội

A. Sơ đồ tư duy bài Muốn làm thằng Cuội

Sơ đồ tư duy bài Muốn làm thằng Cuội

B. Tìm hiểu bài Muốn làm thằng Cuội

I. Tác giả

- Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu

- Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây), mồ côi cha từ nhỏ, già đình nghèo khó.

- Năm 1916 ông chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp.

- Năm 1926 ông cho ra đời An Nam tạp chí.

- Con người:

+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.

+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)

+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…

II. Tác phẩm

1. Thể loại:

Thất ngôn bát cú Đường luật.

2. Xuất xứ:

- Bài thơ nằm trong quyển “Khối tình con con I”, xuất bản năm 1917.

3. Bố cục:

- Bố cục: 4 phần

- Hai câu đề: Cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ.

- Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả.

- Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại.

- Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.

4. Giá trị nội dung:

Bài thơ là một lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

5. Giá trị nghệ thuật:

- Sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạng pha chút ngông nghênh đáng yêu và ở những tìm tòi đổi mới, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Hai câu đầu

- “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!”: Lời cảm thán gợi không gian: “Đêm thu, trăng sáng”.

- Nhà thơ bộc lộ trực tiếp suy tư của bản thân về trần thế: “buồn lắm”, “Trần thế em nay chán nửa rồi”: Lí do là vì cõi trần lắm bon chen, bất công, đất nước mất độc lập, tự do, thân phận nô lệ.

- “Chán nửa”: trong sâu thẳm vẫn tha thiết yêu cuộc sống.

- Xưng hô: chị- em (nhún nhường mà bất trị- ngông).

 Biểu cảm trực tiếp, giọng thơ như lời than thở nhấn mạnh tâm trạng buồn sầu da diết, không nguôi, niềm bất hoà sâu sắc với xã hội.

2. Hai câu thực

- Bày tỏ mong muốn thoát li lên cung Quế (cung trăng) - nơi đẹp đẽ, thanh cao trong sáng - ở cạnh chị Hằng.

 Ước muốn rất ngông.

- Niềm mong muốn được vui trong cảnh bầu bạn, thả hồn cùng mây gió.

 Đó chỉ là niềm vui gượng, vui nhạt vì nó chỉ có trong mộng tưởng.

3, Hai câu luận

- Tự nhận mình là tri kỉ của chị Hằng, xem chị Hằng là người bạn tâm tình để giãi bày những nỗi niềm sâu kín.

- Lên cung trăng được sánh vai cùng chị Hằng, được vui cùng mây gió, quên hết cô đơn, buồn tủi. 

- Khát vọng được sống vui tươi tự do.

4, Hai câu kết

- Cảnh: thi sĩ mãi mãi ở trên cung trăng cùng chị Hằng, đêm rằm trung thu tháng 8 thi sĩ kề vai chị Hằng trông xuống thế gian cười.

 Hình ảnh bất ngờ, thi vị thể hiện cao độ hồn thơ ngông của Tản Đà.

- Thi sĩ thoả mãn vì đã đạt được khát vọng, thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được cõi trần bụi bặm.

- “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”: Sự mỉa mai khinh bỉ cõi trần gian.

 Khao khát sự đổi thay xã hội theo hướng tốt đẹp, thoả mãn nhu cầu sống cá nhân.

IV. Bài phân tích

     Sau hơn mười năm đầu thế kỉ XX bước vào thời kì hiện đại hoá với những áng văn chương yêu nước nổi tiếng của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,... nền văn học nước ta bước vào giai đoạn chuyển biến cực kì sôi động. Từ những nãm 20 trở đi, trên văn đàn xuất hiện các nhà văn mạnh dạn đổi mới cả nội dung lẫn hình thức văn chương. Họ kết hợp những vẻ đẹp của truyền thống với yêu cầu cách tân của thời đại, sáng tác ra những tác phẩm thơ văn đặc sắc mang hơi thở của một lớp người giàu khát vọng, yêu nước, yêu đời, nhưng bế tắc,...

    Một trong những người mở đầu cho dòng văn chương này là thi sĩ Tản Đà. Tản Đà đã sáng tác nhiều tác phẩm mà chỉ đọc tên, chúng ta cũng thấy rõ tính độc đáo, đầy mộng mơ, lãng mạn: Khối tình con I, II, III, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con,... Trong tập thơ Khối tình con có bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" được nhiều người coi là độc đáo nhất. Quả đúng như vậy. Qua nhan đề tác phẩm và ít phút đọc - hiểu ban đầu, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

     Đây là một ước muốn khác đời, kì quặc, hay dãy là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn? Muốn làm thằng Cuội tức là muốn bay lên cung trăng, muốn thoát li cuộc đời trần giới để sống với trăng sao, tiên cảnh ư ? Tại sao nhà thơ lại có ước muốn ấy ? Ước muốn ấy có ý nghĩa gì ?... Biết bao câu hỏi thú vị hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta.

   Cũng là thơ thất ngôn bát cú theo luật thơ Đường, cũng viết bằng chữ Nôm, nhưng so với nhiều bài thơ Nôm thời kì vãn học trung đại và hai bài thơ ra đời trước đó ít năm của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng hồn thơ, giọng điệu và ngôn từ của Muốn làm thằng Cuội có nhiều nét khác hẳn. Bài thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát pha chút tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn, thoát li. Hai câu thơ đầu (vào đề) là lời thở than buồn và chán của một thi sĩ, một con người trần thế :

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi,

Nét độc đáo dễ thấy là hai đại từ nhân xưng "chị" và "em" nghe thật duyên dáng. Nhân hóa vầng trăng, rồi nữ hóa trăng, gọi bằng cái tên Hằng (theo cách nói của nhiều thi sĩ xưa - Hằng Nga - ả Hằng), kèm theo đại từ "chị", xưng mình là "em", nhà thơ tạo ra một quan hệ bất ngờ, thân mật mà dân dã, đúng quan hệ để tâm sự sẻ chia nỗi niềm. Nỗi niềm của nhà thơ bộc bạch trực tiếp bằng hai từ biểu cảm buồn và chán.

   Buồn trong đêm thu là tâm trạng quen thuộc của các vãn nhân nghệ sĩ xưa nay. Bởi vì, mùa thu về, dẫn theo hơi thu se lạnh, gió thu nhè nhẹ hiu hiu, cây cỏ mùa thu héo úa, đợi ngày tàn lụi,... Biết bao thi sĩ dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, từ Hồ Xuân Hương đến Bà Huyện Thanh Quan, rồi Nguyễn Khuyến, Tú Xương,... đã từng thấm nỗi buồn của mùa thu để rồi làm đầm ướt những dòng thơ.

Là một thi sĩ tài danh, nhạy cảm, trước mùa thu, hẳn Tản Đà đã thấm cái hồn thu đất trời, cỏ cây tàn tạ và lây những dòng buồn của văn chương, của các thi sĩ. Đấy là nỗi buồn lãng mạn, nhè nhẹ, bâng khuâng, như vô cớ mà có duyên. Còn tâm trạng "chán nửa rồi" thì không còn là lãng mạn vô cớ kiểu nghệ sĩ nữa. Đó là nỗi buồn chán đẫm chất thế sự của một tâm hồn từng âu lo cho nước cho dân trong cảnh lầm than nô lệ. Đêm thu... buồn, cộng Trần thế... chán, cảnh đất trời thiên nhiên cộng với cảnh đời tối tăm đau khổ đã xui giục nhà thơ cất tiếng thở than, để tìm người chia sẻ. Có lẽ chưa tìm dược ai xứng với mình, nên dành ngẩng mặt than với mây trời, với trăng sao. Trong vòm trời đêm mênh mông kia, có lẽ chí mặt trăng dáng làm tri kỉ. Bởi vì trăng sáng ngời, tròn trịa, phúc hậu, vô tư, vô ngôn mà đầy gợi cảm.

     Dưới đôi mắt, đúng ra là qua trái tim nhạy cảm đa tình của mình, thi sĩ Tản Đà đã thấy ở vầng trăng hình ảnh một mĩ nhân có thể kết bạn tâm giao. Nhà thơ gọi trăng là "chị" - "chị Hằng", tôn xưng người đối thoại là "chị", nhận mình là "em" thật khéo, khéo trong ứng xử (nếu "chị Hằng" là có thật) và khéo trong dẫn dát ý thơ. Hiện lên sau hai câu thơ cấu trúc kiểu lời gọi, tiếng than là một ước nguyện chân thành, tha thiết khiến người nghe, người được cậy nhờ không thể chối từ và người đọc thơ cũng không thể dừng lại. Đến bốn câu thực và luận, lời ước nguyện, cầu xin trở thành một giấc mơ độc đáo:

Cunq quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu, có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Nếu xét về luật bố cục và đối xứng Đường thi thì bốn câu trên đã phạm luật, không đúng nội dung của hai câu thực (tả thực) và hai câu luận (suy luận, mở rộng), từng cặp câu cũng chưa thật đối nhau trong ngôn từ và ý nghĩa. Song đọc lên, ta vẫn thấy ngôn ngữ trôi chảy, ý tứ khoáng đạt, hồn thơ phát triển tự nhiên, gắn bó hài hòa với hai câu mở đề. Đó là những dòng cách tân Đường luật để ý tình được tung phá, "cái tôi" thi sĩ được bay bổng, tự nhiên.

    Bốn câu thơ cất lên những tiếng nói ước nguyện, những dự cảm thật độc đáo. Câu thứ nhất thăm dò "Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?". Câu thứ hai, không đợi trả lời, liền đề đạt, cầu xin mạnh dạn "Cành đa xin chị nhắc lên chơi". Những hình ảnh "cung quế", "cành đa", "ai ngồi đó" gợi biết bao chuyện huyền thoại về "cung Quảng Hàn" (mặt trăng), về "cây đa, chú Cuội" mà nhiều người Việt Nam đều biết.

      Đó đâu phải một nơi chốn của con người mà là những địa chỉ siêu nhiên, những con người siêu nhân chí có trong tưởng tượng, trong những giấc mơ. Phải chăng, khi cất lên những tiếng thơ đó, thi sĩ Tản Đà đang ru hồn mình vào trong một giấc mơ! Ta có cảm giác ông đang bé lại, nhỏ nhắn, tí hon như nhân vật chú Cuội ngày xưa bám vào "cành đa" bay lên, bay lcn, lên đến tận cung trăng, rồi từ từ hạ xuống, ngồi dưới gốc đa, bên cạnh chú Cuội. Sau đó là một cảnh tượng, một bức tranh kì thú :

Có bầu, có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Nhà thơ đã đến đích, được gặp chị Hằng, chú Cuội, được kết bạn với gió, mây. Hai cụm từ "can chi tủi" và "thế mới vui" thể hiện rõ tâm trạng thoả thuê, quên hết nỗi buồn khổ ở trần gian để tìm nguồn vui nơi tiên giới. Âm điệu của ngôn từ như ngân lên pha chút hóm hỉnh, cười đùa, ngông nghênh mà rất tình tứ.

     Có thể nói, tâm hồn lãng mạn của thi nhân đã tìm được một địa chí lí tưởng dể thoát li. Lên tới mặt trăng, ẩn mình trong mây bay, gió cuốn tức là Tản Đà đã hoàn toàn xa lánh được cuộc đời "buồn chán", xa lánh "cõi trần nhem nhuốc". Nhưng ước nguyện của Tản Đà không chí hoàn toàn là trốn chạy, xa lánh. Đó chính là những giấc mơ, những khát vọng chân chính của một con người luôn gắn bó với cuộc dời, luôn mong muốn cuộc đời nói chung, đời mình nói riêng có niềm vui, có hạnh phúc, được gặp những bạn bè nhân hậu, chân tình. Nhà thơ từng than thở :

Chung quanh những đá cùng cây,

Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm

Và đã từng ước mơ :

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm đôi chim nhạn tung trời mà hay .

Với ước nguyện Muốn làm thằng Cuội, cái khát vọng chính đáng kia bắt gặp một giấc mộng của hồn thơ đa tinh, trở thành một cách nói có phần ngông nghênh, ngạo đời, lãng mạn. Chán đời, buồn thu, giờ đây được sánh vai bầu bạn với người đẹp Hằng Nga, được vui chơi thoả thích với mây gió, còn gì thú hơn và làm sao còn cô đơn, sầu tủi được! Cam hứng lãng mạn của Tản Đà mang đậm dấu ấn thời đại và đi xa hơn người xưa là ở chỗ đó. Dấu ấn thời đại và tầm xa trong hổn thơ Tản Đà được đẩy thêm một bậc, bất ngờ là ở hai câu kết bài thơ:

Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

      Đêm trung thu, trăng sáng, người người ngẩng đầu chiêm ngưỡng trăng sao, báu trời, thì nhà thơ lại đang ngồi tít mãi trên cung trăng tựa vai người đẹp Hằng Nga nhìn xuống, ngắm nghía trần gian, rồi... cười. Vì sao nhà thơ cười ? Có thể vì đã đạt được ước mơ, khát vọng thoát li, xa lánh cõi đời trần tục, nên thỏa mãn, cười vui. Cũng có thể vì được đứng ớ vị trí tầm cao, đứng trên mọi thói đời nhỏ bé, thấp hèn, nên nhà thơ nhìn rõ những điều xấu xa, bẩn thỉu, đáng cười, đáng khinh của cõi trần chật hẹp nhỏ nhoi.

     Cũng có thể đầy là cái cười tự trào, tự giễu mình... chơi ngông, hơn đời, khác đời. Một chữ cười mà mở ra hai ba nghĩa, thật thú vị. Phải chăng hai câu thơ kết, nhất là từ cuối cùng của bài thơ ("cười") là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn, phong thái phóng khoáng, ngông nghênh mà rất duyên dáng, đa tình của Tản Đà.

Tóm lại, bài Muốn làm thằng Cuội là tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với xã hội tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng, vui cùng mây gió. Đó là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở vẻ đẹp của giấc mơ ấy được thể hiện ở những từ ngữ, những hình ảnh đậm chất dân tộc, ở những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật của Tản Đà.

       Nhờ những đổi mới trong hồn thơ, tìm tòi trong nghệ thuật, thi sĩ Tản Đà đã góp phần mở ra một giai đoạn cách tân sôi động, hào hứng cho lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, đúng như nhà nghiên cứu Hoài Thanh nhận xét : "Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo... Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp sửa...".

 

Tài liệu có 8 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống