Sơ đồ tư duy bài Bài toán dân số (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 8

Tải xuống 5 3.1 K 6

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 tài liệu sơ đồ tư duy bài Bài toán dân số hay nhất, gồm 5 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bài toán dân số Ngữ văn lớp 8.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Bài toán dân số dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 8:

Bài toán dân số

Bài giảng: Bài toán dân số

A. Sơ đồ tư duy Bài toán dân số

Sơ đồ tư duy Bài toán dân số

B. Tìm hiểu bài Bài toán dân số

I. Tác giả

- Theo Thái An, Báo Giáo dục và Thời đại, chủ nhật, số 28, 1995.

II. Tác phẩm

1. Thể loại

Văn bản nhật dụng.

2. Xuất xứ 

- Đây là văn bản nhật dụng được trích trong “Báo giáo dục và thời đại” Chủ nhật, số 28, 1995.

3. Tóm tắt

Bài toán dân số được đặt ra từ thời cổ đại với câu chuyện cổ về việc kén rể của nhà vua thông thái. Bài toán nhà vua đưa ra là từ một hạt thóc thực hiện cấp số nhân trên 64 ô của bàn cờ, số thóc được tính ra đủ mức bao phủ hết bề mặt trái đất này. Theo tính toán và thống kê thực tế, hiện tại dân số đã mon men tới ô thứ 34 của bàn cờ. Tác giả cảnh tỉnh con đường “tồn tại hay không tồn tại” của chính loài người.

4. Bố cục

Bố cục: 3 phần. 

- Phần 1 (từ đầu … sáng mắt ra): Bài toán dân số được đặt ra từ thời cổ đại.

- Phần 2 (tiếp … sang ô thứ 34 của bàn cờ): Tốc độ gia tăng nhanh chóng dân số thế giới.

- Phần 3 (còn lại): Tìm kiếm lời lời giải cho bài toán dân số.

5. Giá trị nội dung

- Từ câu chuyện về một bài toán cổ về cấp số nhân, tác giả đưa ra các con số buộc người đọc phải liên tưởng và suy ngẫm về sự gia tăng dân số đáng lo ngại của thế giới, nhất là ở những nước chậm phát triển.

6. Giá trị nghệ thuật

- Phương pháp thuyết minh, sử dụng và kết hợp các phương pháp so sánh, nêu số liệu, phân tích.

- Lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

III. Dàn ý tác phẩm

1. Nêu vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình. 

- Đưa ra hai giả thuyết về bài toán dân số: được đặt ra từ thời cổ đại hay vài chục năm gần đây.

- Trình bày quan điểm người viết:

+ Lúc đầu: không tin.

+ Sau đó: “sáng mắt ra”.

⇒ Bài toán dân số và kế hoạch hoá gia đình được đặt ra từ thời cổ đại.

⇒ Cách đặt vấn đề bất ngờ, hấp dẫn ⇒ Khẳng định tác giả nhận thức vấn đề rất rõ và sâu sắc.

2. Từ bài toán cổ đến bài toán dân số.

- Bài toán cổ: Số thóc tăng theo cấp số nhân, nhiều vô kể ⇒ Không khó nhưng không thực hiện được.

⇒ Dẫn ra câu chuyện nhằm so sánh với sự gia tăng dân số của loài người.

⇒ Đánh giá: một con số kinh khủng ⇒ Thái độ bất ngờ, lo lắng.

- Đưa ra câu chuyện về dân số: Ban đầu thế giới có hai người, đến 1995 thế giới có 5,63 tỉ người và đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ.

⇒ Thuyết minh bằng số liệu và cách so sánh ⇒ Dân số tăng rất nhanh.

- Đưa ra câu chuyện về khả năng sinh con của người phụ nữ:

+ Tỉ lệ sinh con (tự nhiên) ở các nước châu Phi, châu Á là rất lớn.

+ Châu Phi có tỉ lệ sinh con ở người phụ nữ lớn hơn châu Á.

⇒ Tác giả muốn giải thích sự gia tăng dân số liên quan chặt chẽ và trực tiếp đến tỉ lệ sinh con tự nhiên của người phụ nữ.

⇒ Cái gốc của vấn đề chính là việc kế hoạch hoá gia đình.

3. Lời đề nghị của tác giả.

- Đừng để cho mỗi con người trên trái đất này chỉ còn diện tích một hạt thóc.

- Muốn có đất sống phải sinh hạn chế sự gia tăng dân số.

⇒ Lời đề nghị ngắn gọn nhưng xác đáng: Cảnh báo và kêu gọi mọi người giảm thiểu sự gia tăng dân số.

IV. Bài phân tích

         Quá khứ với hiện tại, hôm qua và hôm nay nằm trong sự phát triển liên tục của thời gian, có sự kế thừa và nâng cấp. Đó là quy luật khách quan để tồn tại của con người. Bởi thế, nếu phủ nhận quá khứ, thì đó là một sai lầm tai hại. Tuy nhiên, chiếc cầu nối giữa hôm nay với hôm qua có hai hình thức: hoặc là những hồn ma (Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du...) hoặc là lời tiên tri của các nhà thông thái. Nếu hình thức thứ nhất nặng về nhận thức cảm tính như một ám ảnh mơ hồ thì hình thức thứ hai lí tính hơn, khách quan hơn, nó gần như một quy luật. Bởi thế, cách tiếp nhận nó cũng không giống nhau.

       Ở hình thức thứ nhất, đó là giao tiếp tức thời dưới dạng giấc mơ, còn hình thức thứ hai lại tự con người phát hiện dưới dạng những văn bản ngầm có khi từ những vật vô tri, có khi từ ý nghĩa ngụ ngôn của những câu chuyện kể. Sự trùng hợp ngẫu nhiên từ những vật vô tri hay những câu chuyện kể ấy, phải thông qua những trải nghiệm, hoặc những thao tác tư duy rất hiện đại của con người mới phát hiện ra đó là chân lí vĩnh hằng. Cảm nhận của tác giả bài văn chính là từ góc nhìn không ngờ, bất chợt ấy.

      Tâm trạng nửa tin nửa ngờ ở đây là có thật. Bởi làm sao câu chuyện dân số của hôm nay (vài chục năm nay) lai có liên quan đến một câu chuyện kén rể của hàng "dăm bảy ngàn năm về trước" ? "Tôi không tin...", "ai mà tin"..., một cách nói ngập ngừng khi con người ta đến gần một vầng hào quang trí tuệ. Câu chuyện làm cho tác giả bài văn "sáng mắt ra" không khác câu chuyện ngày xưa Cri-xtốp Cô-lông tìm ra châu Mỹ không phải là không có căn cứ. Chỉ có điều căn cứ ấy không từ những mệnh đề lí thuyết trừu tượng của tư duy. Sự liên tưởng, do vậy thật là lí thú. Lập luận thật bất ngờ và giàu sức thuyết phục, về cơ bản là hai câu chuyện có một cấu trúc vận động giống nhau và kèm theo sau đó là những tư liệu tham khảo để người đọc tự hoàn thành công đoạn cuối cùng: Biến khả năng thành hiện thực. Hiện thực ấy lại là một hậu quả khôn lường.

       Hai câu chuyện song trùng giữa một bài toán cổ và một bài toán hôm nay: vấn đề dân số. Cái dich của hai câu chuyện giống nhau dù hai đề tài khác nhau: hành trình của con người đi tìm hạnh phúc. Ở câu chuyện thứ nhất: để làm rể nhà thông thái, các chàng trai phải có một tiềm lực khổng lồ đủ số thóc rải vào 64 ô trên bàn cờ tướng. Yêu cầu đó tưởng như chẳng có gì là khó, "ai cũng tưởng có gì mà không đủ", nhưng rốt cục, ai cũng ngớ người ra (để rải đủ 64 ô, chàng trai trúng tuyển phải có đủ một lượng thóc phú kín bề mặt trái đất). Đúng là câu đố của một "nhà thông thái" ! Nhưng vấn đề có tính chất toán học kia chẳng có ý nghĩa bao nhiêu nếu nó không liên tưởng đến một bài toán khác, bài toán vể dân số của loài người.

      Bài toán về dân số của loài người vừa giống lại vừa khác câu chuyện kén rể của người xưa. Điểm giống nhau là tốc độ gia tăng của cấp số nhân có công bội là 2, còn sự khác nhau là ở chiều hướng của sự gia tăng ấy, ở câu chuyện thứ nhất: càng tăng nhanh càng tốt, còn ở câu chuyện thứ hai: càng chậm càng hay. Vấn đề là ở chỗ: cả hai cái đích trên đây đều khó. Bài toán vể dân số loài người không dễ hơn việc được làm rể nhà thông thái bởi tính chất lưỡng phân, bởi mâu thuẫn khó dung hoà giữa tốc độ phát triển tự nhiên và ý chí con người kìm nén nó.

    Dường như, do phát triển theo khuynh hướng tự nhiên và đã có kiềm chế, dân số loài người từ một cặp vợ chồng (một chàng A-đam, một nàng Ê-va - theo Kinh Thánh), đến năm 1995 đã lên tới 5,63 tỉ người, nghĩa là đã đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ tướng. Đó là hiểm hoạ. Ây là chưa kể nguy cơ bùng nổ dân số có thể diễn ra bất cứ lúc nào, nhất là với các nước chậm phát triển ở hai khu vực châu Á và châu Phi. Từ 3,7 con đến 2 con cho mỗi cặp vợ chồng Việt Nam là một chỉ tiêu phấn đấu đã "rất khó khăn". Ở các nước châu Phi, từ 5,8 con đến 2 con, khó khăn càng trở nên gấp bội.

     Nếu phần thân bài là những thao tác tư duy tính toán thì phần kết bài vẫn là những số liệu băn khoăn. Đất chật, người đông, tự nó sẽ huỷ diệt. Khi đất dành cho mỗi con người chỉ còn là diện tích một hạt thóc (ô thứ 64 trên bàn cờ tướng), trái đất chác sẽ nổ tung mà ngòi nổ chính là sự gia tăng dân số mà con người không tự kiềm chế được. Đừng để xảy ra thảm hoạ, đó là lời cảnh báo cho cả loài người, không loại trừ một ai. Nó nghiêm khắc và răn đe như một định mệnh.

     Về bản chất, đây là một bài văn nghị luận. Nhưng cách thuyết phục của nó không thiên về lí thuyết, lập luận cũng đơn giản nhẹ nhàng nhưng sức cảm hoá của bài văn lại không nhỏ. Từ những con số khách quan im lặng - có khi từ ngàn năm, lần đầu tiên nó dược đánh thức để nói với chúng ta những điều hộ trọng về sự còn mất của chính chúng ta, vấn đề "tồn tại hay không tồn tại" như bi kịch Ham-lét của Sếch-xpia thời Phục hưng đặt ra trong một hoàn cảnh khác, về một vấn để khác cũng quan trọng không kém về con người và sự sống của con người với quy mô toàn nhân loạ

Sơ đồ tư duy Phân tích văn bản Bài toán dân số

Phân tích văn bản Bài toán dân số hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích văn bản Bài toán dân số

I. Mở bài

- Khẳng định vấn đề dân số là vấn đề quan trọng hàng đầu trong các vấn đề toàn cầu

- Khái quát về văn bản Bài toán dân số: là văn bản nhật dụng đề cập đến vấn đề cấp thiết vừa lâu dài của đời sống nhân loại đó là vấn đề dân số thế giới và hiểm hoạ của nó

II. Thân bài

  1. Nêu vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình

- Đưa ra hai giả thuyết về bài toán dân số: được đặt ra từ thời cổ đại hay vài chục năm gần đây

- Trình bày quan điểm người viết:

+ Lúc đầu: không tin

+ Sau đó: “sáng mắt ra”

⇒ Bài toán dân số và kế hoạch hoá gia đình được đặt ra từ thời cổ đại

⇒ Cách đặt vấn đề bất ngờ, hấp dẫn ⇒ Khẳng định tác giả nhận thức vấn đề rất rõ và sâu sắc

  1. Từ bài toán cổ đến bài toán dân số

- Bài toán cổ: Số thóc tăng theo cấp sô nhân, nhiều vô kể ⇒ Không khó nhưng không thực hiện được

⇒ Dẫn chuyện nhằm so sánh với sự gia tăng dân số của loài người

⇒ Đánh giá: một con số kinh khủng ⇒ Thái độ bất ngờ, lo lắng

- Đưa ra câu chuyện về dân số: Ban đầu thế giới có hai người, đến 1995 thế giới có 5,63 tỉ người và đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ.

⇒ Thuyết minh bằng số liệu và cách so sánh ⇒ Dân số tăng rất nhanh

- Đưa ra câu chuyện về khả năng sinh con của người phụ nữ:

+ Tỉ lệ sinh con (tự nhiên) ở các nước châu Phi, châu Á là rất lớn

+ Châu Phi có tỉ lệ sinh con ở người phụ nữ lớn hơn châu Á

⇒ Tác giả muốn giải thích sự gia tăng dân số liên quan chặt chẽ và trực tiếp đến tỉ lệ sinh con tự nhiên của người phụ nữ.

⇒ Cái gốc của vấn đề chính là việc kế hoạch hoá gia đình.

  1. Lời đề nghị của tác giả

- Đừng để cho mỗi con người trên trái đất này chỉ còn diện tích một hạt thóc

- Muốn có đất sống phải sinh hạn chế sự gia tăng dân số

⇒ Lời đề nghị ngắn gọn nhưng xác đáng: Cảnh báo và kêu gọi mọi người giảm thiểu sự gia tăng dân số.

III. Kết bài

- Khái quát thành công về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung: Sử dụng kết hợp các phương pháp so sánh, dùng số liệu phân tích, lập luận chặt chẽ, ngôn ngữ khoa học, giàu sức thuyết phục

- Liên hệ thực tế và nâng cao nhận thức bản thân

Bài văn mẫu: Phân tích văn bản Bài toán dân số - mẫu 1

Viết về hiểm hoạ của việc gia tăng dân số quá nhanh - một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của "Bài toán dân số" đã chọn cách vào đề thật hấp dẫn, vừa thực tế, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64 ô bàn cờ với một lượng thóc "nhiều đến mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất", bạn đọc dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số chóng mặt với tốc độ sinh sản như hiện nay.

Vấn đề chính mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình. Điều làm tác giả "sáng mắt ra" ấy là: không ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ đại.

Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, hấp dẫn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất ngờ ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện ấy làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và gia tăng dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh ấy, quả thực đã làm cho người đọc hình dung một cách nhanh chóng đến tốc độ gia tăng kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề mà bài viết muôn nêu lên.

Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy chỉ tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm phát triển lại sinh con rất nhiều.

Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lac hậu, kinh tế chậm phát triển, văn hoá, giáo dục không được nâng cao... Ngược lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng không thể khống chế được sự gia tăng dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động đến nhau một cách sâu sắc.

Bài văn mẫu: Phân tích văn bản Bài toán dân số - mẫu 2

 “Bài toán dân số” là một văn bản thuyết minh về vấn đề dân số, đăng trên báo Giáo dục và Thời đại Chủ nhật, số 28, năm 1995. Bằng những minh chứng chân thực và sinh động, tác giả trình bày thực trạng của vấn đề dân số và khả năng gia tăng trong tương lai, đồng thời lên tiếng cảnh báo những hậu quả khủng khiếp đối với nền kinh tế, an ninh, chính trị và chất lượng cuộc sống của con người nếu không kiểm soát sự gia tăng dân số trên thế giới.

Vấn đề chính mà tác giả muốn đặt ra trong văn bản này là sự gia tăng dân số đáng lo ngại của thế giới. Từ câu chuyện về bài toán của nhà thông thái thời cổ đại, liên tưởng đến vấn đề dân số của hiện tại, tác giả bỗng “sáng mắt ra” vì hiểu được dân số thế giới đã và đang tăng theo cấp số nhân, rồi sẽ dạt đến ruột con số khủng khiếp trong tương lai.

Câu chuyện kén rể của nhà thông thái cổ ý nghĩa thuyết minh một cách cụ thể để làm nổi bật vấn đề chính mà tác giả muốn nói tới. Hình ảnh bàn cơ tướng với 64 ô mà từ ô thứ nhất đến ô cuối cùng, sô” thóc – có thể hiểu mỗi hạt thóc chỉ một ngươi – tăng theo cấp sô” nhân với công bội là 2, cổ ý nghĩa giúp cho người đọc hình dung một cách cụ thể nguy cơ gia tăng dân số loài người.

Việc đưa ra những con số về tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô nhằm mục đích trình bày nguy cơ gia tăng dân số. Tính trong điều kiện mỗi gia đình chỉ có hai con, dân số thế giới đã gia tăng đến mức đáng lo ngại. Nhưng “trong thực tế, một người phụ nữ có khả năng sinh được rât nhiều con”.

Tác giả đưa ra những số liệu cụ thể để chứng minh cho điều này. Nhìn chung, các nước châu Phi (Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca…) có tỉ lệ sinh con ơ phụ nữ cao hơn các nước châu Á (Ân Độ, Nê-pan, Việt Nam…). “‘Như vậy, phấn đấu mỗi gia đình có một đến hai con là chỉ tiêu rất khó khăn”. Nhưng nếu không phân đấu như vậy, dân số” sẽ gia tăng đến con số khủng khiếp.

Ở các châu lục còn nhiều nước chậm phát triển như châu Phi và châu Á, nguy cơ đó càng đáng sợ bởi sự phát triển xà hội không theo kịp tốc dộ gia tăng dân số, đời sống con người càng khó khăn hơn. Nếu không điều chỉnh được tỉ lệ gia tăng dân số, sẽ đến lúc ‘‘mỗi con người trên trái đất này chỉ còn diện tích một hạt thóc”, tức là con người không còn đất đai để sinh sông, và cũng không còn cái để sống.

Đất đai không sinh thêm, con người lại ngày càng nhiều lên gấp bội. Nếu không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình. Từ câu chuyện một hài toán cổ về cấp số nhân, tác giả đã đưa ra các con số buộc người đọc phải liên tưởng và suy ngẫm về sự gia tăng dân sô đáng lo ngại của thế giới, nhất là ở những nước chậm phát triển.

“Bài toán dân số” đưa đến cho chúng ta hiểu biết về tình hình gia tăng dân số trên thế giới và ở Việt Nam, để từ đó chúng ta có hành động thiết thực và cùng có trách nhiệm trong việc hạn chế gia tăng dân số. Đây là một thông điệp cấp thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn với toàn nhân loại.

Video Phân tích văn bản Bài toán dân số

i.

Tài liệu có 5 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống