Bắc Sơn - Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 6 2.4 K 2

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Bắc Sơn hay nhất, gồm 6 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bắc Sơn Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Bắc Sơn Ngữ văn lớp 9:

BẮC SƠN

(Nguyễn Huy Tưởng)

A. Nội dung tác phẩm

Bối cảnh vùng nông thôn Vũ Lăng bắt đầu bùng nổ phong trào khởi nghĩa trong quần chúng, nhân dân hưởng ứng mít tinh và ủng hộ cách mạng, nhiều quan lại và lính Tây bị bắt giết. Gia đình cụ Phương có cậu con trai tên Sáng cũng là nhân dân ưu tú nhiệt liệt tham gia trong khi đó, bà cụ Phương, con gái Thơm và chàng rể Ngọc lại thờ ơ, sợ hãi. Sau đó, trung ương cử giáo Thái về lãnh đạo và uốn nắn tư tưởng, định hướng phong trào cho người dân ở Vũ Lăng. Khi Ngọc - tên Việt gian sừng sỏ bị bắt và đưa ra tử hình, cụ Phương xin cho hắn được toàn mạng. Cuối cùng, chính hắn là kẻ dẫn giặc về đàn áp khởi nghĩa, bắn giết đồng bào và bắn cả bố vợ mình.

Ngọc sau vụ đó được thưởng rất nhiều tiền, tiếp tục làm tay sai cho giặc dẫn Tây về tìm bắt anh Thái và Cửu - một nông dân người Tày làm cán bộ Cách mạng. Khi hắn dẫn theo tùy tùng đi truy đuổi, cô Thơm đã giấu Thái và Cửu vào trong buồng nhà và cứu thoát họ, cô chính thức giác ngộ cách mạng. Biết được âm mưu đánh úp của chồng và đồng bọn, Thơm băng qua rừng giữa đêm khuya tới căn cứ để tiếp tế và báo tin. Quay về gặp Ngọc, cô bị y bắn trọng thương, y cũng trúng đạn mà chết. Cuộc càn quét của giặc thất bại, Thái và Cửu đưa Thơm về cứu chữa.

Tác giả tác phẩm Bắc Sơn – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 1)

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Huy Tưởng (sinh năm 1912)

- Quê quán: làng Dục Tú, từ Sơn, bắc Ninh nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng

+ Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên.

+ Năm 1951, ông tham gia chiến dịch biên giới

+ Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996

- Tác phẩm tiêu biểu: Bốn năm sau, An Tư công chúa, Truyện Anh Lục…

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

- Vở kịch Bắc Sơn được Nguyễn Huy Tưởng sáng tác và đưa lên sân khấu vào đầu năm 1946 trong không khí sôi sục của những năm đầu cách mạng.

b, Bố cục

Vở kịch gồm 5 hồi. Đoạn trích đưa vào Sgk là hai lớp của hồi 4:

- Lớp I (tóm tắt): Đối thoại giữa vợ chồng Thơm và Ngọc. Mâu thuẫn giữa hai người, Thơm dần dần nhận ra con người thật của Ngọc. Cô đau xót và ân hận.

- Lớp II: Thơm  - Thái - Cửu: Giới thiệu tình huống kịch, tạo điều kiện cho mâu thuẫn, xung đột phát triển. Thái - Cửu, hai cán bộ , chiến sĩ cách mạng chạy chốn, tình cờ trong lúc bối rối chạy vào nhà Thơm và cô quyết định cho hai người trốn ở buồng ngủ của mình.

- Lớp III: Thơm - Ngọc: Ngọc đột ngột về nhà, Thơm tìm cách giấu chồng qua câu chuyện, càng bộc lộ tâm trạng mâu thuẫn, day dứt trong lòng Thơm. Một mặt dù nhận ra bản chất phản động của Ngọc, đã quyết định che giấu hai cán bộ cách mạng, mặt khác Thơm vẫn chưa đủ cương quyết để hành động...

c, Giá trị nội dung

- Đoạn trích thể hiện những xung đột diễn ra trong nội tâm nhân vật Thơm, thúc đẩy diễn biến tâm trạng nhân vật để đi tới bước ngoặt quan trọng, làm nổi bật vẻ đẹp và sự chuyển biến trong nhận thức của nhân vật Thơm.

d, Giá trị nghệ thuật

- Tác giả thành công trong việc xây dựng tình huống kịch: tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ rõ xung đột và thúc đẩy hành động kịch phát triển, tác giả đã tổ chức được các đối thoại với những nhịp điệu, giọng điệu khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn của hành động kịch.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Tình huống kịch 

- Trong hai lớp kịch ở hồi bốn của vở kịch “Bắc Sơn”, tác giả đã xây dựng một tình huống kịch gay cấn, thể hiện rõ nét xung đột kịch. Đó là tình huống Thái và cửu, sau khi bị Ngọc và đồng bọn truy lùng, trong lúc chạy trốn, hai đồng chí cách mạng đã chạy nhầm vào nhà Ngọc, trong lúc Thơm – vợ của Ngọc – ở nhà một mình. Tình huống này buộc cô phải lựa chọn cách giải quyết: hoặc là che giấu, giúp đỡ họ trốn thoát hoặc là hô lên để Ngọc và đồng bọn vào bắt giữ họ. Nếu chọn cách thứ nhất sẽ là một sự đánh cược bằng cả tính mạng mình, bởi cô thừa biết kết cục của kẻ “che giấu cán bộ cách mạng” khi bị bọn tay sai phát hiện. Còn nếu làm theo cách thứ hai thì cô sẽ phải day dứt, giày vò suốt đời. Nhưng cuối cùng, vượt lên trên tất cả, Thơm đã chấp nhận thậm chí cả hi sinh tính mạng để che giấu hai chiến sĩ cách mạng ngay trong nhà mình. Tình huống ấy, xung đột được đẩy lên cao trào cũng là một cách để nhân vật thể hiện vẻ đẹp, ngọn lửa của chính nghĩa, của lương thiện bấy lâu vẫn âm ỉ cháy trong tâm hồn mình.

- Trong vở kịch “Bắc Sơn”, xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù là xung đột cơ bản, và trong hồi bốn của vở kịch, ta thấy sự đối đầu giữa Thái, Cửu với Ngọc và bọn tay sai là xung đột căng thẳng nhất của đoạn trích.

- Ngoài ra, ta còn thấy xung đột trong diễn biến tâm lí của nhân vật Thơm. Tình huống bất ngờ Thái và cửu chạy nhầm vào nhà Thơm, dẫn đến Thơm có hành động có tính chất bước ngoặt. Thơm nhanh trí và khôn ngoan đưa Thái và cửu ẩn nấp trong buồng nhà cô, do đó các anh đã thoát được sự truy lùng của bọn tay sai. Hành động đó của Thơm đã dẫn đến những sự thay đổi trong thái độ, hành động của cô ở các lớp sau.

2. Tâm trạng và hành động của nhân vật Thơm

- Trong vở kịch, Thơm tiêu biểu cho quần chúng lúc đầu chưa hiểu gì về cách mạng, lo sợ và trốn tránh, nhưng sau đó được thức tỉnh và đứng hẳn về phía hàng ngũ cách mạng. Trong những ngày đầu khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp, những người ở vào hoàn cảnh như Thơm rất phổ biến. Cha và em cô tham gia cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và đã hi sinh. Mẹ cô hoá điên bỏ đi lang thang. Người thân duy nhất là Ngọc – chồng cô – lại là Việt gian bán nước. Điều đó làm cô đau đớn và day dứt, ân hận. Mặc dù, Ngọc quanh co che giấu việc làm tay sai đê tiện của y, nhưng Thơm đã nhận ra bộ mặt phản động của chồng. Cô vẫn nuôi hi vọng mơ hồ có thể níu kéo Ngọc thoát khỏi con đường tội lỗi.

- Tình huống Thái và Cửu chạy nhầm vào nhà Thơm đã đưa Thơm đến hành động có tính chất bước ngoặt, chấm dứt xung đột nội tâm. Bản chất của Thơm là một người lương thiện và trung thực. Cô đã che giấu hai đồng chí cách mạng mà không sợ liên luỵ đến bản thân mình. Việc làm của Thơm nếu bị Ngọc và đồng bọn phát hiện thì cô sẽ phải nhận cái chết: tội che giấu người cách mạng. Song Thơm đã vượt qua được nỗi lo sợ, rất bình tĩnh, cứu thoát Thái và Cửu khỏi sự truy lùng của bọn phản động.

- Khi Ngọc về qua nhà, Thơm đã bình tĩnh để đối mặt với Ngọc. Đến lúc này, Thơm cũng đã nhận ra bộ mặt tay sai, phản động của chồng mình.

- Hành động che giấu Thái và cửu đã tạo ra bước ngoặt trong đời Thơm. Thơm đã đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng và dẫn đến những hành động sau này của cô. Sau này, biết tin Ngọc dẫn đường cho quân Pháp lên đánh quân du kích, Thơm đã luồn rừng đi suốt đêm báo tin để đội quân kịp thời đối phó. Trên đường quay về, cô đã bị chính chồng mình bắn.

- Tâm trạng day dứt, ân hận và hành động dứt khoát của Thơm đã bộc lộ tính gay cấn của đoạn trích. Qua sự thức tỉnh và sự gia nhập vào hàng ngũ cách mạng của Thơm, tác giả đã khẳng định tính chất chính nghĩa của cách mạng cũng như khả năng thức tỉnh những người từng lo sợ, trốn tránh cách mạng. Cuộc cách mạng của nhân dân ta không chỉ cần đến những chiến sĩ quả cảm, gan dạ như Thái và Cửu mà còn cần đến những con người bình dị như Thơm. Dù có lúc họ đã trốn tránh, chưa hiểu đúng về cuộc cách mạng, nhưng nếu ta biết vận động, cảm hoá, tin tưởng họ thì họ cũng sẽ trở thành những chiến sĩ quả cảm.

3. Nhân vật Ngọc

- Vốn là một nho lại, với địa vị thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thoả mãn lòng ham muốn địa vị, quyền lực và tiền tài. Ngọc đã dẫn quân Pháp vào đánh chiếm Vũ Lăng. Ở hồi bốn, Ngọc càng thể hiện bản chất Việt gian, y ra sức truy lùng những người cách mạng đang lẩn trốn trong vùng, đặc biệt là Thái và Cửu. Bản chất của nhân vật đã bộc lộ qua hành động và lời lẽ giả dối để đánh lừa Thơm, lại có lúc trực tiếp thể hiện lòng khát thèm tiền bạc, địa vị và sự đố kị tầm thường.

4. Nhân vật Thái, Cửu

- Đối lập hoàn toàn với tên phản động Ngọc là hai chiến sĩ cách mạng Thái và Cửu. Thái và Cửu không phải là nhân vật chính của vở kịch, song tính cách của họ cũng được bộc lộ qua tình huống kịch tính. Họ mang nét đẹp của những chiến sĩ cách mạng: dũng cảm, kiên trung, không sợ cái chết. Cùng rơi vào hoàn cảnh như nhau, nhưng Thái và Cửu biểu hiện tính cách khác nhau.

- Thái là người bình tĩnh trước mọi việc và biết nhìn nhận người tốt. Thái không nghi ngờ Thơm, dù cô là vợ của tên Việt gian. Niềm tin và sự bình tĩnh của Thái đã củng cố thêm lòng tin cho Thơm và đưa cô đến một hành động dứt khoát, bất chấp cả tính mạng mình.

- Thái là một chiến sĩ rất cần cho cách mạng, nhất là trong công tác vận động quần chúng, bảo vệ họ về phía cách mạng. Sự bình tĩnh của Thái đã củng cố niềm tin cho quần chúng và tạo cho họ niềm tin vào cách mạng.

- Trái với tính cách của Thái, Cửu là người nóng tính, có phần nóng vội và đa nghi. Anh cho rằng: “Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian Song điểm nổi bật của Cửu là chiến sĩ cách mạng kiên trung và yêu nước.

⇒ Thái và Cửu là những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…

D. Sơ đồ tư duy

BẮC SƠN

Sơ đồ tư duy Phân tích Bắc Sơn

Phân tích Bắc Sơn hay nhất ( 3 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích Bắc Sơn

I. Mở bài:

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng: một nhà văn chủ chốt của nền văn học Việt Nam.

- Khái quát về đoạn trích: thuộc lớp 2,3 hồi 4 của kịch "Bắc Sơn": đoạn trích đã thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật Thơm,

II. Thân bài

1. Tình huống kịch

- Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi chạy vào đúng nhà Thơm (vợ Ngọc), tình huống này buộc buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.

2. Nhân vật Thơm

- Hoàn cảnh:

+ Cha, em trai: hi sinh.

+ Mẹ: bỏ đi.

- Còn một người thân duy nhất là Ngọc - chồng.

+ Sống an nhàn, được chồng chiều chuộng (sắm sửa, may mặc…).

- Tâm trạng: Luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.

- Thái độ với chồng:

+ Băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian.

+ Tìm cách dò xét.

+ Cố níu chút hi vọng về chồng.

- Hành động:

+ Che giấu Thái, Cửu – hai chiến sĩ cách mạng ngay trong buồng của mình.

+ Khôn ngoan, che mắt Ngọc bảo vệ cho 2 chiến sĩ cách mạng.

⇒ Nghệ thuật miêu tả ⇒ Hành động táo bạo, bất ngờ ⇒ Là người có bản chất trung thực, lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng nên đã biến chuyển thái độ, đứng hẳn về phía cách mạng.

⇒ Khẳng định chân lý: Cuộc đấu tranh cách mạng ngay cả khi bị đàn áp khốc liệt cũng sẽ không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm.

3. Nhân vật Ngọc

- Là nhân vật giả nhân giả nghĩa.

- Ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.

- Làm tay sai cho giặc (Việt gian).

- Tên Việt gian bán nước đê tiện, đáng khinh, đáng ghét.

⇒ Là một người hám lợi, hám danh.

4. Nhân vật Thái, Cửu

- Bị truy đuổi - chạy vào nhà Thơm.

- Thái: giữ lại, tươi cười, định chạy ra cửa ⇒ Hành động bình tĩnh, sáng suốt.

- Cửu: vẻ mặt thất sắc, chĩa súng định bắn thất vọng, hoài nghi ⇒ Nóng nảy, hăng hái nhưng thiếu chín chắn.

⇒ Những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…

III. Kết bài:

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:

+ Nghệ thuật: Cách tạo dựng tình huống sử dụng ngôn ngữ đối thoại.

+ Nội dung: Thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật Thơm – người phụ nữ có chồng theo giặc – đứng hẳn về phía cách mạng.

Bài văn mẫu Phân tích Bắc Sơn – mẫu 1

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, viết văn, làm báo từ trước 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng và kháng chiến. Các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực, đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Vở kịch Bắc Sơn được ông sáng tác và đưa lên sân khấu đầu năm 1946, trong khí thế sôi sục mở đầu kháng chiến. Bối cảnh của vở kịch là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 I 1941) và nội dung xoay quanh những biến cố xảy ra trong gia đình cụ Phương, dân tộc Tày. Cụ Phương cùng con trai là Sáng hăng hái tham gia chiến đấu. Còn bà cụ và cô con gái là Thơm lại ngại ngần, xa lánh. Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu. Tổ chức của ông giáo Thái là cán bộ Đảng đến giúp nhân dân củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc (chồng của Thơm) dẫn đường đã kéo vào chiếm lại Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Quân khởi nghĩa phải rút vào rừng. Cụ Phương trong lúc dẫn đường, bị giặc Pháp bắn đã hi sinh. Trước cái chết của cha và em trai Thơm, bộ mặt Việt gian bán nước của tên Ngọc dần dần lộ rõ. Thơm vô cùng đau xót và ân hận. Ở hồi 4 của vở kịch Bắc Sơn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một tình huống đặc biệt để thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù; đồng thời phản ánh diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật Thơm – một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định sức thuyết phục to lớn của chính nghĩa.

Sự kiện chính của hồi 4 như sau: Thái cùng một cán bộ phong trào là Cửu bị giặc truy lùng ráo riết, vô tình chạy nhầm vào nhà Thơm, mà Ngọc – chồng Thơm lại đang dẫn lính đuổi bắt hai người. Thơm nhanh trí che giấu và cứu thoát họ. Bằng hành động ấy, Thơm đã dứt khoát đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng. Sau đó, biết tin Ngọc dẫn đường cho quân Pháp lên đánh úp lực lượng du kích, Thơm đã luồn rừng đi suốt đêm đến báo để họ kịp thời đối phó. Lúc quay về, bất ngờ gặp Ngọc, Thơm đã bị y bắn; nhưng chính Ngọc lại chết vì trúng đạn của quân Pháp. Nội dung hồi 4 cho thấy nghệ thuật viết kịch rất già dặn của Nguyễn Huy Tưởng. Thành công nổi bật là tác giả đã tạo dựng nên tình huống bất ngờ, gay cấn để đẩy mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, bộc lộ tâm lí và tính cách nhân vật. Thơm là vợ Ngọc – một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Đã quen với cuộc sống an nhàn và ngại gian khổ nên Thơm không tham gia vào phong trào khởi nghĩa, mặc dù cha và em trai là những quần chúng tích cực. Tuy thế, ở Thơm vẫn chưa mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng và tính thương người. Thơm quý trọng ông giáo Thái là cán bộ được tổ chức cử đến giúp dân đẩy mạnh phong trào khởi nghĩa. Vì lực lượng yếu và thiếu kinh nghiệm nên phong trào cách mạng bị giặc đàn áp, cha và em trai Thơm đều hi sinh. Thơm ân hận và đau đớn khi biết chồng mình vì hám tiền, hám danh mà sẵn sàng làm tay sai cho Pháp, dẫn giặc về đốt phá bản làng, giết hại đồng bào.

Tâm trạng và hành động của Thơm được tác giả miêu tả trong hoàn cảnh éo le: cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, cha và em trai đã hy sinh, mẹ đau đớn đến điên dại bỏ nhà đi. Thơm chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, nhưng y đã dần dần lộ rõ bộ mặt Việt gian bán nước. Bằng số tiền thưởng của bọn Pháp, Ngọc đã thỏa mãn những nhu cầu vật chất của vợ chồng hắn như tậu nhà mới, mua sắm nữ trang, quần áo… Tuy vậy, Thơm vẫn sống trong day dứt và ân hận. Hình ảnh người cha lúc hi sinh, những lời trăng trối cuối cùng của ông, khẩu súng trao lại cho Thơm, sự hi sinh của đứa em trai, nhất là tình cảnh thương tâm của người mẹ. Tất cả những hình ảnh ấy luôn ám ảnh, giày vò tâm trí cô. Sự nghi ngờ của Thơm đối với Ngọc ngày càng tăng. Trong những lần trò chuyện với chồng, Thơm luôn tìm cách dò xét ý nghĩ và hành động của chồng để tìm hiểu sự thật, còn Ngọc thì luôn kiếm cớ lảng tránh. Tuy vậy, Thơm vẫn cố níu lấy một chút hy vọng: Đã chắc gì những lời đồn?… Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế?…. Một tình huống xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với Thơm, buộc cô phải lựa chọn thái độ dứt khoát: Thái và Cửu là hai cán bộ cách mạng bị bọn giặc truy lùng, đã chạy nhầm vào chính nhà Thơm, tức là nhà Ngọc. Ban đầu, Thơm hoảng sợ khi nghe tiếng súng nổ rất gần và sự xuất hiện đột ngột của Thái và Cửu. Nhưng với bản chất trung thực và lương thiện, cùng với sự quý mến sẵn có dành cho Thái và cả sự hối hận, tất cả những điều đó đã thôi thúc Thơm hành động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng ngủ của mình. Thơm nói với hai cán bộ cách mạng bằng giọng tự tin và quyết đoán: “Hai ông đừng nói nữa. Ngọc nó về. Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm ở đây, may ra…” Khi Ngọc về đến nhà, Thơm đã khôn ngoan, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ họ. Lúc đầu, Thơm giả vờ ngủ gật để hướng sự chú ý của Ngọc sang việc khác.

Tiếp đến Thơm kể chuyện ở nhà nhớ Ngọc ra sao rồi bảo Ngọc mời những kẻ đang lùng bắt cán bộ lên nhà chơi. Thơm khéo léo nói những lời tình cảm để Ngọc ra lệnh cho bọn truy lùng rút lui. Đồng thời cũng chính lúc này, Thơm đã nhận rõ bộ mặt Việt gian cùng sự xấu xa bỉ ổi của chồng. Điều đó sẽ dẫn đến hành động chủ động của cô ở hồi cuối: khi biết Ngọc sẽ dẫn đường cho quân Pháp vào rừng lùng bắt những người khởi nghĩa, cô đã luồn tắt rừng suốt đêm để báo tin cho du kích kịp thời đối phó. Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh căng thẳng và tình huống gay cấn, tác giả đã thể hiện đời sống nội tâm phức tạp với những nỗi day dứt, đau xót và ân hận của Thơm, để rồi cô đã hành động dứt khoát, đứng hẳn về phía cách mạng. Qua nhân vật Thơm, Nguyễn Huy Tưởng khẳng định rằng ngay cả khi gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng vẫn không thể bị tiêu diệt và nó vẫn có khả năng thức tỉnh quần chúng, ngay cả với những người ở vị trí trung gian.

Trong hồi 4, bản chất xấu xa của nhân vật Ngọc đã được tác giả miêu tả đầy đủ. Vốn chỉ là một gã thư ký quèn, địa vị thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn ham muốn địa vị, quyền lực và tiền tài. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân ở châu Bắc Sơn bị lật đổ, Ngọc thù hận cách mạng. Y cam tâm làm tay sai cho giặc, trực tiếp dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa.

Càng ngày, Ngọc càng bộc lộ bản chất tàn bạo. Y ra sức truy lùng cán bộ cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Để che giấu hành động xấu xa của mình, Ngọc ra sức chiều chuộng vợ. Tuy vậy, tâm địa và tham vọng đen tối của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước mắt Thơm, đặc biệt là khi Ngọc không giấu diếm thái độ ghen tức và ý đồ thẳng tay trừng trị “thằng Tốn” nào đó ở trong làng. Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không đơn thuần tập trung vào hắn những cái xấu, cái ác mà bên cạnh đó vẫn chú ý khắc họa tính cách riêng.

Bài văn mẫu Phân tích Bắc Sơn – mẫu 2

Kịch Bắc Sơn là một trong những tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về chủ đề cách mang, vở kịch ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò của các cán bộ cách mạng trong việc định hướng tư tưởng đấu tranh của nhân dân. Qua đó, tác giả biểu dương tinh thần yêu nước và ý chiến quật cường chiến đấu của quần chúng. Hồi IV của vở kịch là một trong những đoạn nổi bật nhất với tình huống gấp gáp, thể hiện bước ngoặt kịch tính về cả tâm lí nhân vật và diễn biến sự kiện. Tính bi tráng là hơi thở nổi bật của hồi kịch này, được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ dân tộc Tày tiêu biểu cho hàng ngàn quần chúng nhân dân đã và đang trên con đường giác ngộ cách mạng.

Tính bi tráng, bi là bi ai, buồn bã, cồn trắng là hùng tráng, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng. Bi tráng là đau thương, mất mát về một thời quá khứ oai hùng, vừa có tính bi thương, lại không hề kém phần gân guốc, hùng dũng. Trong vở kịch Bắc Sơn, tính bi tráng được thể hiện ở tinh thần cách mạng. bộc lộ qua những nút thắt tâm lí nhân vật và hình tượng nhân vật người phụ nữ đang trên con đường giác ngộ - cô Thơm. Chất anh hùng ca không được miêu tả trực tiếp, nhưng qua những cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, cái bi tráng được bộc lộ một cách rõ nét và ngày càng có xu hướng tăng tiến. Hồi năm của vở kịch kể về cảnh Ngọc dẫn Tây truy đuổi hai cán bộ Cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Rơi vào tình huống nguy kịch, hai người chạy trốn vào nhà anh Đốc người quen, ai ngờ lại đúng phải nhà tên Ngọc mới mua được. Cửu rút súng định bắn Thơm, vợ Ngọc vì cho rằng cô cũng là Việt gian nhưng Thái đã kịp ngăn cản vì tin rằng Thơm mang dòng máu yêu nước của cha cô. Đúng lúc ấy, Ngọc ghé qua nhà sau khi đã lùng sục nhà bà Lục, bác Chui,... Thơm nhanh trí đẩy hai cán bộ vào buồng và chỉ chỗ trốn, đồng thời tỏ ra bình thản trước mặt Ngọc để hắn không nghi ngờ và nhanh chóng rời đi

Tính bi tráng của vở kịch nằm ở mặt tình huống. Tình huống kịch tính, căng thẳng và hồi hộp. Thơm mang tiếng là vợ Việt gian, nhưng cô lại là người che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng. Trái với suy nghĩ "Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian" của anh Cửu, đứng trước áp lực Ngọc chuẩn bị vào nhà, tiếng chó săn sủa râm ran, tiếng chân người rầm rập, Thơm lo lắng: "Chết nổi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?". Bản thân cô thực sự lo lắng, cố gắng tìm cách giúp đỡ hại cán bộ cách mạng. Bị đẩy vào tình huống nguy cấp, Thơm bộc lộ tính cách quyết liệt, khéo léo và có bước ngoặt tâm lý rõ ràng trên con đường giác ngộ Cách mạng. Lời nói như lời thề: "Tôi không bảo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hai ông đâu" là đỉnh cao của tính bi tráng về mặt tình huống của vở kịch. Cái bi tráng ở đây là chất anh hùng trong sự cùng khổ, trong tình huống khó khăn ngàn cân treo sợi tóc, những con người một lòng vì Cách mạng đã thể hiện tinh thần quả cảm, không đầu hàng trước khó khăn thử thách. "Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại''. khép lại tình huống đầy căng thẳng, kịch tính. Vợ một tên Việt gian sừng sỏ đã che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng cho thấy, Thơm đã hoàn toàn giác ngộ, thể hiện tấm lòng của nhân dân với đường lối của Đảng.

Tính bi tráng cũng thể hiện ở xung đột giữa Thơm và Ngọc. Trong từng hành động và lời nói, Ngọc dần bộc lộ bản mặt bán nước, một tay sai đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi lùng bắt cán bộ. Hắn được thưởng rất nhiều tiền từ việc làm bất nhân tính của hắn, hắn mơ hàm cửu phẩm, lúc nào cũng nghĩ đến danh tính: "Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!". Ngoài ra, hắn còn đặt điều bôi nhọ anh Thái, phá bỏ hình tượng về anh Thái trong mắt Thơm. Với Thơm, anh Thái là người "bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng", "cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!", như Ngọc lại bịa đặt: "mật thám cho Tây đấy ", lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là "hai cái thằng tướng cướp. Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng". Chính từ những mâu thuẫn về mặt tư tưởng giữa Thơm và Ngọc như vậy đã gây ra những xung đột tâm lý từ phía Thơm. Khi ông Thái và anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm, ở dưới là lý trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục và cả Ngọc, chồng của Thơm, tình huống này đã thể hiện tính bi tráng điển hình. Ngọc chần chừ trong nhà, nán lại nói chuyện với Thơm, đếm tiền, cười cợt, ngắm vợ, rồi còn thốt lên: "Chắc là nó còn ở đấy, nhất định là nó còn ở đấy!...". Đứng trước tình huống như vậy, Thơm không tỏ ra sốt ruột dù trong lòng như lửa đốt mà tỏ ra rất nhẹ nhàng, tình cảm, dùng lời nói ngọt ngào:"Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức" thể hiện thái độ ân cần, quan tâm, đồng thời khéo léo thúc đẩy Ngọc đi: "Thế nào có đi không?" lúc nghe tiếng quan gọi. Thơm đóng kịch giỏi hay là vì quá lo lắng cho hai cán bộ mà cô đã dìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Qua mắt được tên Việt gian khôn ngoan, mà người đó còn là chồng mình, tác giả đã thể hiện tâm trạng nhân vật đầy tính bi tráng, trong khó khăn, gian khổ nhưng luôn ứng biến kịp thời, lộ rõ chất anh hùng, dũng cảm chảy trong huyết thống.

Tính bi tráng trong hồi IV vở kịch Bắc Sơn được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ nhân vật đến tình huống. Nói về tính bi tráng trong khuôn khổ Vũ Lăng nói riêng hay chính là toàn thể lãnh thổ Việt Nam, những người chiến sĩ nhân dân dũng cảm, không ngại xả thân vì đất nước. Bằng ngòi bút sắc sảo và cách xây dựng tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự tin tưởng vào con đường cách mạng - con đường duy nhất để đi tới độc lập dân tộc, đồng thời thể hiện sự thương yêu và trân trọng với những người thật thà, chân phương mà giàu sức sống, giàu lòng quyết chiến quyết thắng.

 

 

Tài liệu có 6 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống