TOP 16 bài Cảm nhận bài thơ Bếp lửa 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 25 13.9 K 5

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Bếp lửa hay nhất, gồm 25 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 16 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN BÀI THƠ BẾP LỬA

Bài giảng: Bếp lửa

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với giọng văn tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê hương.Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức.

Mở đầu bài thơ, hình ảnh “bếp lửa” được điệp lại đến hai lần, nhấn mạnh hình tượng trung tâm của bài thơ, là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm xúc cho cháu. Từ láy “chờn vờn” tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo lắng cho đứa cháu ruột rà để rồi tạc vào lòng người đọc một tình cảm thiêng liêng là kết tinh của những hình ảnh ấy:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Cụm từ biết mấy nắng mưa gợi về thành ngữ “mưa nắng dãi dầu”, nói lên sự khổ cực mà người bà chấp nhận để lo lắng, vun vén cho gia đình. Bài thơ gợi lại cả một thời tuổi nhỏ, nhọc nhằn, thiếu thốn của người cháu bên cạnh người bà, ở đó có cả bóng tối ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945:

“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực. Có những khi “Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi” trong khi mẹ và cha bận công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay cưu mang, đùm bọc của bà. “Bà bảo cháu nghe” từng câu chuyện quê hương, “bà dạy cháu làm” từng công việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những nhỏ nhặt, tủn mủn trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Câu nói ấy của bà đã theo tác giả suốt ngần ấy năm mà không thể nào quên được. Đó là câu nói thể hiện sự hy sinh to lớn của những bà mẹ. Hình ảnh bà bao giờ cũng ấm áp yêu thương và tình cảm hai bà cháu bao giờ cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

Từ “bếp lửa” được cụ thể ở trên đến hai câu dưới, nhà thơ dùng từ ngọn lửa mà không nhắc lại “bếp lửa”. “Ngọn lửa” ở đây mang một ý nghĩa khái quát rộng lớn, sâu xa hơn: Đó là ngọn lửa của niềm hy vọng, có sức sống bền bỉ của tình bà cháu, tình quê nhà nồng đượm. Bếp lửa chỉ làm nồng ấm câu thơ nhưng hình ảnh “ngọn lửa” tỏa sáng từng dòng thơ lung linh hình ảnh của bà ấm lòng người đọc. Hình ảnh bà là hình ảnh người nhóm lửa, giữ lửa và đặc biệt còn là người truyền lửa, ngọn lửa thiêng của sự sống niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Tác giả đã nhắc đến những điều ấy với tất cả sự quý trọng và lòng biết ơn đối với bà. Bởi nói đến bà là nói đến những cảnh tượng vất vả, tảo tần:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”.

Cụm từ “ấp iu nồng đượm” được láy lại đến hai lần, nhưng ở đây không còn là hình ảnh “một bếp lửa” mà là hình ảnh “nhóm bếp lửa”. Đằng sau “biết mấy nắng mưa” của cuộc đời “lận đận”, người bà vẫn nhen nhóm thắp lên ngọn lửa, không chỉ là ngọn lửa của thực tại mà còn là ngọn lửa của tình yêu thương, của sự ngọt bùi thơm thảo mang nặng tình cảm gia đình.Nhà thơ đã 10 lần nhắc đến hình ảnh bếp lửa và bên cạnh đó là người bà. Nhớ đến bà là cháu nhớ đến hình ảnh bếp lửa, nói đến hình ảnh bếp lửa là cháu lại nhớ ngay đến bà, vì hai hình ảnh này gắn bó với nhau suốt những năm dài gian khổ. Bếp lửa gắn với cuộc đời của bà với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại, hy sinh. Bếp lửa đã thắp sáng niềm hy vọng, của sức sống bền bỉ, của tình ba cháu, tình quê hương. Hình ảnh bếp lửa ở đây vừa có nghĩa thực vừa có ý nghĩa tượng trưng, vừa gần gũi lại rất đỗi tự hào khiến Bằng Việt phải thốt lên:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”.

Trở về với thực tại, nhà thơ đang ở nơi “đất khách” trên hành trình chinh phục con chữ về phát triển quê hương, chắc chắn sẽ không gặp phải khó khăn của “những năm đói mòn đói mỏi” thế nhưng hình ảnh người bà tần tảo với bếp lửa sớm hôm vẫn luôn hiển hiện bởi đó là quá khứ, là tuổi thơ, là ký ức những tháng ngày khó nhọc cùng tình cảm thiêng liêng bất diệt:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Câu hỏi tu từ cùng nghệ thuật tu từ im lặng đã kết thúc bài thơ, thế nhưng lại mở ra biết bao cảm xúc trong lòng người đọc về những hoài niệm ân tình tha thiết và sâu nặng về tình cảm bà cháu. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận, thông qua việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh của người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về tình bà cháu.Qua từng câu chữ trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, đẹp đẽ, thật đáng quý trọng và thương yêu trong tấm lòng của tác giả. Hình ảnh ấy gắn với bếp lửa bằng một vẻ đẹp bình dị trong đời sống thường nhật. Bếp lửa gợi lên những kỷ niệm ấm nồng, thắm thiết mà rất đỗi thiêng liêng, trọn đời nâng đỡ và dưỡng nuôi tâm hồn.

Sơ đồ tư duy

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên du học ở Liên Xô.
 Qua dòng hồi tưởng và suy ngầm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động của tình bà cháu, thể hiện tình cảm kính yêu và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, cùng là đối với quê hương, đất nước.

2. Thân bài: Hình ảnh bếp lửa gắn với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ.

- Bếp lửa khơi dòng hoài niệm, khơi dòng cảm xúc. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay khéo léo và tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa. Người bà mỗi sớm nhen lên ngọn lửa, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, suốt một đời…

- Hồi tưởng về thời gian được sống trong tình yêu thương, chăm chút của bà.

- Cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu trước cách mạng và trong kháng chiến, hàng loạt hình ảnh gợi tả, gợi cảm: đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi… in đậm trong kí ức bi thảm của chú bé lên tám tuổi.

- Cha mẹ đi kháng chiến, cháu ở cùng bà, được bà chăm sóc: Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…

+ Tuổi thơ vất vả gắn liền với bếp lửa bập bùng, bếp lửa hiện diện như tình thương ấm áp, như sựcưumang, an ủi của bà đối với đứa cháu nhỏ, như một phần cuộc đời gian truân của chính bà.

+ Tuy vất vả, nhọc nhằn nhưng bà vẫn vượt qua tất cả để các con yên tâm đánh giặc nơi chiến trường xa.

- Tình cảm thương yêu và biết ơn chân thành: Cháu thượng bà biết mấy nắng mưa.

+ Giữa người bà và bếp lửa như có những nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, người nhóm lửa đểngọn lửa của tình thương trong mỗi gia đình luôn cháy sáng, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai.

3. Kết bài:

- Bài thơ Bếp lửa mang một ý nghĩa triết lí sâu sắc: Những gì là kỉ niệm thân thiết của tuổi thơ đều có sức toả sáng, nuôi dưỡng tâm hồn, nâng đỡ con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời.

- Tình cảm gia đình là cơ sở vững chắc của tình yêu quê hương đất nước.

Top 6 bài Cảm nhận bài thơ Bếp lửa hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Bằng Việt sinh năm 1941, quê tỉnh Hà Tây. Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thơ Bằng Việt sâu trầm, tinh tế, bình dị dễ làm lay động lòng người.

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả rời xa quê hương học ngành luật ở Nga. Từ xa tổ quốc, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ, nhớ về quê hương vẫn còn đang trong cuộc chiến đau thương mất mát. Đặc biệt hình ảnh bếp lửa nồng đượm và người bà hiền hậu đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.Mở đầu bài thơ hiện lên hình ảnh bếp lửa ấm áp trong làn sương lạnh chốn đồng quê:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm lên.Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm vào cả lòng người.Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Hai từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp hằng ngày.Từ đôi bàn tay cằn cỗi của bà, ngọn lửa đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn đã rất nồng ấm trong tim người cháu:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Top 6 bài Cảm nhận bài thơ Bếp lửa hay nhất (ảnh 2)

Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ngọn lửa ấy đã trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù đang còn biết bao gian khổ, nguy nan.Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng, nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà. Cụm từ bếp lửa được lặp lại, khắc họa rõ nét và làm hiện hình bếp lửa ấm áp và xa vời trong kí ức, từ hình ảnh bếp lửa về với quá khứ xa xôi năm 4 tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn. Năm lên bốn tuổi, người cháu đã biết cùng bà nhóm lửa. Đó cũng là kỉ niệm xa xôi nhất trong kí ức mà người cháu còn nhớ được. Năm đó cũng là năm “đói mòn đói mỏi”. Cái đói khủng khiếp, cùng cực hiện rõ trong hình ảnh con ngựa kéo xe:

“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

Đó chính là năm 1945, năm nạn đói xảy ra trên toàn miền Bắc. Sau khi vừa thoát khỏi chiến tranh, nước ta lại rơi vào những khó khăn, thách thức ghê gớm: nền kinh tế kiệt quệ, thiên tai, hạn hán liên tiếp xảy ra khiến cho công việc sản xuất ngưng trệ, mất mùa liên miên. Toàn miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử. Thêm vào đó dịch bệnh bùng phát khắp nơi. Trải qua giai đoạn đen tối đó có tới hơn 2 triệu người chết.Quả thật, may mắn cho những ai vượt qua được nạn đói ấy. Cho đến bây giờ, nhớ về thời điểm ấy, tác giả vẫn còn thấy cay cay trong đôi mắt. Cay bởi vì khói bếp. Cay vì bởi thương bà, thương dân tộc phải quần vũ trong cơn bĩ cực của đời người. Kí ức đau thương ấy, mùi khói quen thuộc ấy cho đến bây giờ như còn vương vấn đâu đây.Thời gian đi qua, đủ sức để làm nhạt phai tất cả. Nhưng, những kỉ niệm bên bà nhóm lửa trong suốt tám năm ròng không thể nào phai mờ trong kí ức.

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, gian truân, cực nhọc nhưng đầy tình yêu thương. Cách dẫn thời gian dài đằng đẵng gợi lên những tháng năm lầm lụi trong cuộc sống đói nghèo. Bố mẹ đi kháng chiến, tám năm cháu ở cùng bà. Tám năm, người bà thay bố thay mẹ chăm sóc, dưỡng nuôi và bảo vệ người cháu trước bao hiểm nguy, trắc trở. Chính bà là người đã dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.Từng ngày, từng ngày bếp lửa lại được nhóm lên cùng những bài học, những câu chuyện cùng lời nhắc nhở ân cần của bà. Bếp lửa như là dấu hiệu để mở đầu cho mọi hoạt động, dẫn dắt con người đi vào cuộc sống. Mỗi sớm bếp lửa cháy lên mở đầu ngày mới. Mỗi chiều bếp lửa lại cháy lên để khép lại một ngày và mở ra một miền sáng mới ấm áp và thân thương của sự đoàn tụ.Mỗi ngày, người cháu chứng kiến bà nhóm lửa. Từ những que củi vô tri, ngọn lửa ấm cháy lên như một phép màu. tưởng như dễ dàng nhưng không phải thế, những ngày mưa gió, củi ướt rơm ẩm, nhóm được bếp lửa quả thật gian nan biết chừng nào. Thế nên người cháu mỗi lần nhóm bếp lửa mà nghĩ về biết bao khó nhọc của bà.Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được nhắc lại đến bốn lần tạo nên một sự ám ảnh lớn.Lần thứ nhất, tiếng tu hú văng vẳng trên những cánh đồng xa, hiu hắt trong sương mờ, khói xám:

“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”

Lần thứ hai, nó lặp lại ngay sau đó trong câu hỏi đầy mến yêu:

“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?”

Lần thứ ba, tiếng tu hú thê thiết đi sâu vào nỗi buồn sâu thăm thẳm:

“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Lần thứ tư trong lời tha thiết gọi mời của tác giả:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Trong không gian đồng quê tiêu điều, xơ xác, tiếng chim tu hú gợi lên một nỗi buồn bã và sợ hãi khôn cùng. Trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ cũng gợi tả tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già, với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên tươi đẹp, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, buồn thương và tiếc nuối.Trong tâm lí con người, con chim tu hú luôn mang đến cho con người những điều không may mắn. Nó là đại diện của những gì xấu xa, ma quái, đầy chết chóc. Tiếng kêu u uất, đứt quãng, sầu bi của loài chim giấu mặt này luôn khiến cho người ta bất an, lo lắng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong.Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà. Có lẽ, lúc ấy tác giả không hề biết điều đó, lắng nghe âm thanh tiếng chim như dấu hiệu duy nhất với niềm tin vào sự đồng cảm trong sự sống đầy khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng tình và không bao giờ phản bội con người.Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.Những năm tháng thơ mộng và bình yên ấy mau chóng đi qua, đọng lại trong nhà thơ là miền kí ức đau thương của quê hương, làng xóm:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.

Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con người; hòng phá tan ước vọng hòa bình và muốn khuất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Nhưng không, họ đã không chết, họ đã không đầu hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên "dựng lại túp lều tranh” làm lại từ đầu từ đống tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng vào cách mạng, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững vàng hơn:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.

 

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng tô đậm thêm đức tính hi sinh của bà. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

“Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương, tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điêu đứng nhất. Bà đinh ninh dặn dò, lời dặn dò chắc nịch như nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn hướng về tiền tuyến.Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bồng con đánh giặc năm nào:

“Mẹ là nước chứa chan,

Trôi giùm con phiền muộn

Cho đời mãi trong lành

Mẹ chìm dưới gian nan”.

(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)

Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra, cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế, chăm nom và dạy bảo.Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đốt làng, tất cả bị hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, bà chấp nhận hi sinh tất cả những gì mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bếp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.Đến đây, ý thơ bỗng giãn ra, miên man trong kí ức tuổi thơ tươi đẹp bên cạnh bà và bếp lửa. Giờ đây, bếp lửa và bà tuy hai mà một đã hòa quyện vào nhau thành nguồn sống mạnh mẽ, bất diệt:

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…"

Hình ảnh người bà chắt chiu ngọn lửa ấm một lần nữa lặp lại. Giờ đây, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau.Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

...

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng.Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau.

Thiêng liêng bởi vì nó gắn chặt với hình ảnh người bà đáng kính trong kí ức tuổi thơ. Nó cùng bà cháu đi qua thời gian. Nó xua tan bóng tối. Nó mang lại sự ấm no và hạnh phúc. Nó duy trì niềm tin tưởng và nguồn sống. Mặc khác trong đời sống tinh thần Việt Nam, bếp lửa gắn liền với thần lửa – vị thần bảo hộ của cuộc sống gia đình vốn rất được con người kính trọng và tôn vinh.Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không nguôi. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên”.

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ.Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau, tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ, từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.Bếp lửa còn là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng, là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa biểu hiện một triết lí sâu sắc, đọng lại trong ta biết bao cảm phục. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 3

Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.”

Ba tiếng “một bếp lửa đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh thân thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cái giá lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là cái chờn vờn trong tâm trí của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo lắng, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Video bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Bếp lửa

Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé!

“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.”

Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong hoàn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ cực. Từ ghép “mòn mỏi” được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói …

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”

Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy sức truyền cảm đặc biệt khiến người đọc không khỏi có cảm giác cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ ấy lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống khó khăn song hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam lúc ấy, những người lớn phải tham gia kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ: Mẹ cùng cha công tác bận không về.Và vì thế chỉ có hai bà cháu côi cút bên nhau. Bà kể chuyện ở Huế cho cháu nghe, bà dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao công việc bà đều lo hết vì bố mẹ bận công tác không về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Những kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, bởi “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói", đã sớm phải lo toan. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm ròng rã. Tám năm đó nó cũng không phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt”. Cảm giác ấy chân thật và xúc động. Cái làn khói bếp của ngày xưa ấy như bay đến tận bây giờ làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay khi nhớ về tuổi thơ và cũng vì thương nhớ đến người bà.Người cháu nghĩ đến bà rồi nghĩ đến quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thông cho cuộc sống đói nghèo trong chiến tranh của hai bà cháu. Và trong lời kể của bà có cả “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”

Kỉ niệm của tuổi thơ đã được đánh thức, ở đó có hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm và có hình ảnh cả quê hương.Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.

“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.”

Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 4

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết.

Khổ thơ đầu chỉ vỏn vẹn ba câu nhưng đã khắc sâu hình ảnh “bếp lửa” trong kí ức của tác giả. Từ bao đời nay, bếp lửa đã trở thành một vật dụng quá đỗi quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân làng quê Việt Nam. Đó là nơi đun nấu những bữa cơm ngon lành và ấm cúng cho cả gia đình sau một ngày làm việc, là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn, là không khí sinh hoạt gia đình đầm ấm, yên vui. Trong mỗi gia đình, không thể không có một bếp lửa.Có lẽ vì những điều ấy nên đang sống ở xứ người lạnh lẽo, tác giả chạnh lòng nhớ về bếp lửa của quê nhà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.Từ láy “chờn vờn” có sức gợi tả rất lớn. Nó vẽ nên một ngọn lửa không định hình, lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn cháy cao, tỏa sáng một cách mãnh liệt. Hình ảnh ấy vừa giúp ta hình dung làn sương sớm lành lạnh đang nhẹ vờn quanh bếp lửa bập bùng, lại vừa rất thích hợp để gợi lên cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian, của những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn có sức ám ảnh day dứt…Từ láy “ấp iu” cũng là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy đơn thuần là sự kết hợp và biến thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Một bếp lửa ủ than hồng nồng đượm nhờ có bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp.Từ hình ảnh “bếp lửa”, ta liên tưởng đến hình ảnh người nhóm bếp: người mẹ, người chị và đặc biệt trong bài thơ này là người bà – người phụ nữ cả một đời vất vả lo toan cho cháu, chăm lo, vun vén cho cuộc sống của cháu trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và gian khổ.Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhòe lẫn trong nhau đó là “bà” và “bếp lửa”. Trong hồi tưởng của người cháu, hình ảnh bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu thương của bà dành cho cháu và những người thân. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút.

Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Bếp lửa ấy cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ. Chính vì điều đó, khi nghĩ đến bếp lửa, hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ trong tâm trí của nhà thơ.Vào đề chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến hai lần điệp ngữ “một bếp lửa”. Phải! Chỉ một bếp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ để gợi về cả một quá khứ, một tình yêu thương mãnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp đi như tô, như khắc đậm thêm tình yêu thương của cháu đối với bà. Người cháu, dù đã cố kìm nén, cũng không thể nào giấu được nỗi lòng của mình:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Chữ “thương” diễn đạt rất chân thật, giản dị, không một chút hoa mĩ như chính tấm lòng của đứa cháu đối với bà. Chính cách nói gây xúc động đối với người nghe. Ta nghe như tiếng thơ đang thổn thức…Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.Và chính tình thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”

Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả xúc động về cái khổ của con người, của cuộc sống trong thời kì đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:

“Con đói lả ôm lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi

Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”.

Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng những chi tiết gợi tả: “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”. Bút pháp kể, tả đan lồng vào nhau gây xúc động lòng người. Câu thơ vừa miêu tả cái biểu hiện đáng sợ của “giặc đói”, vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống với bà. Cái đói, cái nghèo lan tràn khắp thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng với con người gầy rạc đi vì không đủ ăn, bỏ lại đứa con thơ cho người đàn bà yêu thương, chăm sóc.Cảm nhận về nỗi vất vả, đói khổ của tuổi thơ ấu, kỉ niệm như vẫn còn nguyên, tác giả không thể nào quên: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”. Cái cay, cái xót của cuộc sống đói khổ, cơ cực thấm đến lồng xương, ống máu để đến bây giờ, hơn mười năm sau nghĩ lại, cái cảm giác “cay” ấy vẫn còn nguyên vẹn nơi cánh mũi. Cái cay nơi sống mũi cứ lan tỏa, triền miên trong tâm hồn người cháu. Dường như đó là một nỗi niềm mang vị chua xót, nghẹn ngào lẫn yêu thương.Lời thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như đang lạc vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn gắn bó, chăm sóc, che chở về cả tinh thần lẫn vật chất cho cháu. Tình yêu thương của bà, tấm lòng nhân hậu của bà như xua tan đi bao đau thương, bao khổ cực chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động lòng người trong cả bài thơ.Tác giả tiếp tục để mình đắm chìm trong những dòng hồi tưởng về quá khứ, về cả một tuổi thơ sống bên cạnh bà:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà. Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỉ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa.Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.

Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp? Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam.Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn.Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…Kỷ niệm cũ như những thước phim thời thơ ấu tràn về trong tâm tưởng của người cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.

Chiến tranh. Chỉ cần nhắc đến hai chữ ấy thôi, ai trong chúng ta cũng đều liên tưởng đến tính khốc liệt, tàn ác mà nó đem đến cho dân tộc. Nó đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao người, bao gia đình. Hai bà cháu trong bài thơ cũng không ngoại lệ: gia đình bị chia cắt, nhà cửa bị đốt “cháy tàn cháy rụi”. Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được cái đau thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.Và trong hoàn cảnh này, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hi sinh cao cả. Nỗi khổ vì nhà bị giặc tàn phá, bà âm thầm chịu đựng. Từ “lầm lũi” diễn đạt rất xúc động hình ảnh bà lặng lẽ sớm hôm, muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những lo toan vất vả, nhọc nhằn. Bà vẫn chịu thương chịu khó, cặm cụi làm việc chỉ vì không muốn con mình ở chiến khu phải lo lắng cho gia đình:

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. Nỗi khổ giặc phá làng xóm, nỗi vất vả, thiếu thốn, bà âm thầm chịu đựng. Chỉ mong sao con mình ở nơi tiền tuyến xa xôi luôn yên lòng để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lời dặn dò giản dị ấy không chỉ giúp hiểu thêm về tấm lòng, về tình cảm thương con, thương cháu của người bà, mà còn gián tiếp đề cao những phẩm chất cao quý của bà: bình tĩnh, vững lòng, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để yên lòng người đi công tác.Đức hy sinh, tần tảo; sự nhẫn nại, kiên trì trụ thật vững trong lòng bà đến cảm động! Cháu nhớ đến bà, nghĩ về bà và cảm nhận được rằng: bà đang hiện diện bên mình. Lời bà yêu thương, ấm lòng cứ như văng vẳng bên tai… Làm sao cháu có thể quên?Trong những ngày tháng vất vả ấy, bà vẫn giữ vững hy vọng, một niềm tin mãnh liệt vào kháng chiến:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Giữa tro tàn, mất mát, đau thương, bà lại nhóm lửa. Bếp lửa ân cần ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phản hoàn toàn với ngọn lửa hung tàn, thiêu hủy dã man của bọn giặc. Bếp lửa bà nhen ấm nồng tình yêu thương, niềm tin trong sáng mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”.Bếp lửa bà nhen không chỉ là bếp lửa thông thường nữa mà nó chứa ngọn lửa của nghĩa tình, ngọn lửa nhóm lên trong tâm hồn đứa cháu thơ một tình cảm rộng lớn. Đó là tình bà hằng ấp ủ, tình thương bao la dạt dào suốt cả cuộc đời bà luôn dành cho cháu và những người thân yêu. Từ “bếp lửa” của lòng yêu gia đình và quê hương đất giờ đã trở thành hình ảnh “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng.Ngọn lửa. Đó là sức sống, là niềm hy vọng và niềm tin mãnh liệt của bà vào cuộc kháng chiến, vào một tương lai tươi sáng, một tương lai không có chiến tranh. Đất nước được độc lập, hòa bình, gia đình được đoàn tụ, sum họp. Ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, soi sáng cả quãng đường cháu đi. Đây cũng là hình ảnh bao trùm, khái quát, là nét tình cảm tinh túy của cả bài thơ.Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt chiu, giàu nghị lực và có tấm lòng hi sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng cao quý.Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm với triết lí sâu xa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”.

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu.Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”

Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, lời độc thoại: “- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con người.

Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội.Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tình bà cháu ấm nồng, sâu nặng thiết tha…Qua đó, tác giả đã bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung cùng với tình yêu thương xen lẫn cảm phục đối với người bà đáng kính.

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 5

Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.

Mở đầu bài thờ là hình ảnh bếp lửa:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Ba tiếng “một bếp lửa” đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh thân thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cải giá lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là cái chờn vờn trong tâm trí của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo lắng, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé!

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.

Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong hoàn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ cực. Từ ghép “mòn mỏi” được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói...
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy sức truyền cảm đặc biệt khiến người đọc không khỏi có cảm giác cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ ấy lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống khó khăn song hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam lúc ấy, những người lớn phải tham gia kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ:

Mẹ cùng cha công tác bận không về.

Và vì thế chỉ có hai bà cháu côi cút bên nhau. Bà kể chuyện ở Huế cho cháu nghe, bà dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao công việc bà đều lo hết vì bố mẹ bận công tác không về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Những kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, bởi “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói", đã sớm phải lo toan. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm ròng rã. Tám năm đó nó cũng không phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt”. Cảm giác ấy chân thật và xúc động. Cái làn khói bếp của ngày xưa ấy như bay đến tận bây giờ làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay khi nhớ về tuổi thơ và cũng vì thương nhớ đến người bà.

Người cháu nghĩ đến bà rồi nghĩ đến quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thông cho cuộc sống đói nghèo trong chiến tranh của hai bà cháu. Và trong lời kể của bà có cả “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi:

Tù hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Kỉ niệm của tuổi thơ đã được đánh thức, ở đó có hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm và có hình ảnh cả quê hương.

Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, toả sáng trong gia đình:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.

Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.

Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.

Cảm nhận bài thơ Bếp lửa – mẫu 6

Bằng Việt sinh năm 1941, quê tỉnh Hà Tây. Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thơ Bằng Việt sâu trầm, tinh tế, bình dị dễ làm lay động lòng người. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả rời xa quê hương học ngành luật ở Nga. Từ xa tổ quốc, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ, nhớ về quê hương vẫn còn đang trong cuộc chiến đau thương mất mát. Đặc biệt hình ảnh bếp lửa nồng đượm và người bà hiền hậu đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Mở đầu bài thơ hiện lên hình ảnh bếp lửa ấm áp trong làn sương lạnh chốn đồng quê:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm lên.

Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm vào cả lòng người.

Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Hai từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp hằng ngày.

Từ đôi bàn tay cằn cỗi bà, ngọn lửa đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn đã rất nồng ấm trong tim người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ngọn lửa ấy đã trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù đang còn biết bao gian khổ, nguy nan.

Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.

Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng, nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà. Cụm từ bếp lửa được lặp lại, khắc họa rõ nét và làm hiện hình bếp lửa ấm áp và xa vời trong kí ức, từ hình ảnh bếp lửa bà tư về với quá khứ xa xôi năm 4 tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn. Năm lên bốn tuổi, người cháu đã biết cùng bà nhóm lửa. Đó cũng là kỉ niệm xa xôi nhất trong kí ức mà người cháu còn nhớ được. Năm đó cũng là năm “đói mòn đói mỏi”. Cái đói khủng khiếp, cùng cực hiện rõ trong hình ảnh con ngựa kéo xe:

“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

Đó chính là năm 1945, năm nạn đói xảy ra trên toàn miền Bắc. Sau khi vừa thoát khỏi chiến tranh, nước ta lại rơi vào những khó khăn, thách thức ghê gớm: nền kinh tế kiệt quệ, thiên tai, hạn hán liên tiếp xảy ra khiến cho công việc sản xuất ngưng trệ, mất mùa liên miên. Toàn miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử. Thêm vào đó dịch bệnh bùng phát khắp nơi. Trải qua giai đoạn đen tối đó có tới hơn 2 triệu người chết.

Quả thật, may mắn cho những ai vượt qua được nạn đói ấy. Cho đến bây giờ, nhớ về thời điểm ấy, tác giả vẫn còn thấy cay cay trong đôi mắt. Cay bởi vì khói bếp. Cay vì bởi thường bà, thương dân tộc phải quan vũ trong cơn bi cực của đời người. Kí ức đau thương ấy, mùi khói quen thuộc ấy cho đến bây giờ như còn vương vấn đâu đây.

Thời gian đi qua, đủ sức để làm nhạt phai tất cả. Nhưng, những kỉ niệm bên bà nhóm lửa trong suốt tám năm ròng không thể nào phai mờ trong kí ức:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, gian truân, cực nhọc nhưng đầy tình yêu thương. Cách dẫn thời gian dài đằng đẵng gợi lên những tháng năm lầm lũi trong cuộc sống đói nghèo. Bố mẹ đi kháng chiến, tám năm cháu ở cùng bà.

Tám năm, người bà thay bố thay mẹ chăm sóc, dưỡng nuôi và bảo vệ người cháu trước bao hiểm nguy, trắc trở. Chính bà là người đã dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.

Từng ngày, từng ngày bếp lửa lại được nhóm lên cùng những bài học, những câu chuyện cùng lời nhắc nhở ân cần của bà. Bếp lửa như là dấu hiệu để mở đầu cho mọi hoạt động, dẫn dắt con người đi vào cuộc sống. Mỗi sớm bếp lửa cháy lên mở đầu ngày mới. Mỗi chiều bếp lửa lại cháy lên để khép lại một ngày và mở ra một miền sáng mới ấm áp và thân thương của sự đoàn tụ.

Mỗi ngày, người cháu chứng kiến bà nhóm lửa. Từ những que củi vô tri, ngọn lửa ấm cháy lên như một phép màu. tưởng như dễ dàng nhưng không phải thế. những ngày mưa gió, củi ướt rơm ẩm, nhóm được bếp lửa quả thật gian nan biết chừng nào. Thế nên người cháu mỗi lần nhóm bếp lửa mà nghĩ về biết bao khó nhọc của bà.

Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được nhắc lại đến bốn lần tạo nên một sự ám ảnh lớn.

Lần thứ nhất, tiếng tu hú văng vẳng trên những cánh đồng xa, heo hút trong sương mờ, khói xám: “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa” Lần thứ hai, nó lặp lại ngay sau đó trong câu hỏi đầy mến yêu: “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?” . Lần thứ ba, tiếng tu hú thê thiết đi sâu vào nỗi buồn sâu thăm thẳm: “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Lần thứ tư trong lời tha thiết gọi mời của tác giả: Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà. Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Trong không gian đồng quê tiêu điều, sơ xác, tiếng chim tu hú gợi nên một nỗi buồn bã và sợ hãi khôn cùng. trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ cũng gợi tả tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già, với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên tươi đẹp, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, buồn thương và tiếc nuối.

Trong tâm lí con người, con chim tu hú luôn mang đến cho con người những điều không may mắn. Nó là đại diện của những gì xấu xa, ma quái, đầy chết chóc. Tiếng kêu u uất, đứt quãng, sầu bi của loài chim giấu mặt này luôn khiến cho người ta bất an, lo lắng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong.

Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà. Có lẽ, lúc ấy tác giả không hề biết điều đó, lắng nghe âm thanh tiếng chim như dấu hiệu duy nhất với niềm tin vào sự đồng cảm trong sự sống đầy khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng tình và không bao giờ phản bội con người.

Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.

Những năm tháng thơ mộng và bình yên ấy mau chóng đi qua, đọng lại trong nhà thơ là miền kí ức đau thương của quê hương, làng xóm:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.

Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con người; hòng phá tan ước vọng hòa bình và muốn khuất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Tội ác của kẻ thù đã được Hoàng Cần khắc hoạ trong bài thơ Bên kia sông Đuống bằng lớp ngôn từ sắc lạnh, đầy căm phẫn:

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”.

(Bên kia sông Đuống)

Nhưng không gì có thể tiêu diệt được sức sống của con người. Họ đã không chết, họ đã không đầu hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên “dựng lại túp lều tranh” làm lại từ đầu từ đống tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng vào cách mạnh, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững vàng hơn:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng tô đậm thêm đức tính hi sinh của ba. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.

Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh: “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương, tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điêu đứng nhất. bà đinh ninh dặn dò, lời dặn dò chắc nịch như nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn hướng về tiền tuyến.

Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.

Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bồng con đánh giặc năm nào:

“Mẹ là nước chứa chan,
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan”.

(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)

Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra, cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế, chăm nom và dạy bảo.

Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đốt làng, tất cả bị hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, Bà chấp nhận hi sinh tất cả những gì mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bếp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.

Đến đây, ý thơ bỗng giãn ra, miên man trong kí ức tuổi thơ tươi đẹp bên cạnh bà và bếp lửa. Giờ đây, bếp lửa và bà tuy hai mà một đã hòa quyện vào nhau thành nguồn sống mạnh mẽ, bất diệt

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… “

Hình ảnh người bà chắt chiu ngọn lửa ấm một lần nữa lặp lại. Giờ đây, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.

Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau.

Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”

Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng.

Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau.

Thiêng liêng bởi vì nó gắn chặt với hình ảnh người bà đáng kính trong kí ức tuổi thơ. Nó cùng bà cháu đi qua thời gian. Nó xua tan bóng tối. Nó mang lại sự ấm no và hạnh phúc. Nó duy trì niềm tin tưởng và nguồn sống. Mặc khác trong đời sống tinh thần Việt Nam, bếp lửa gắn liền với thần lửa – vị thần bảo hộ của cuộc sống gia đình vốn rất được con người kính trọng và tôn vinh.

Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cứ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên”

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ.

Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau, tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ, từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.

Bếp lửa còn là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng, là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.

Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt biểu hiện một triết lí sâu sắc, đọng lại trong ta biết bao cảm phục. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Bình luận bài thơ Bếp lửa

Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go... Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.

Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa,

Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé... Và kỉ niệm này xin để nguyên khối, không dám lược bớt:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!

Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen...

Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước... Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - Mẫu 1

Đã rất nhiều năm trôi qua, tôi ngày nào còn là một đứa trẻ giờ đây đã trưởng thành và đang là sinh viên ngành Luật ở Nga. Khí trời dạo này se se lạnh, vì thế thoải mái nhất là khi ngồi bên bếp lửa ấm áp, sau một ngày dài. Bếp lửa gợi cho tôi về rất nhiều kỉ niệm, về những ngày thơ ấu, những năm chiến tranh được ở cùng với bà – người đã bên cạnh tôi suốt nhiều năm, người mà tôi kính trọng nhất.

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ sâu sắc trong tôi. Một buổi sáng sớm thời tiết trở mùa, cái khí lạnh của miền Bắc lùa vào trong gian nhà nhỏ. Và cũng vào lúc ấy, bà thức dậy nhóm bếp, một bếp lửa chứa hơi ấm và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Thời ấu thơ bên bà, có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.

Tôi ở với bà có lẽ từ rất bé, đến nỗi tôi chẳng nhớ rõ bắt đầu từ lúc nào. Chỉ nhớ là khi tôi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên quen thuộc. Đó là năm sau giải phóng, là năm mà nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của rất nhiều người dân. Còn đối với tôi, đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Cái ăn cái mặc không đủ, sống trong sự lo sợ, phải dành dụm từng miếng ăn. Bố tôi phải đi đánh xe cùng với con ngựa gầy nhom vì đói. Tiền chẳng được bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để lây lất từng ngày. Những ngày tháng ấy, bếp lửa đối với tôi như một nỗi ám ảnh, khói hun nhèm cả mắt, cùng ngồi với bà bên bếp lửa. Đến bây giờ khi nhớ lại, sống mũi tôi bỗng cay cay, những kí ức đó vừa là kỉ niệm nhưng cũng làm tôi nghẹn lòng khi nghĩ về.

Tám năm có lẽ không phải là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng quá đủ đối với tôi để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ bên bà, cùng bà nhóm bếp. Tôi vẫn còn nhớ tiếng chim tu hú kêu trên những cánh đồng, tiếng kêu vang vảng, nghe sao tha thiết. Những lúc ấy, bà kể tôi nghe chuyện những ngày còn ở Huế, rằng bà từng sống thế nào, đến giờ tôi vẫn còn nhớ.

Mẹ cùng cha đi công tác bận không về, vì vậy mà suốt thời gian đó tôi ở với bà, sống trong sự cưu mang và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể chuyện cho tôi nghe, những lời bà dạy rất bổ ích, ý nghĩa. Sống với bà nên từ bé tôi đã sớm có ý thức tự lập, sớm biết lo toan, giúp đỡ bà. Tôi thương bà lắm, trước đây vất vả nuôi cha tôi khôn lớn, giờ lại phải chăm cháu dù tuổi khá cao, vậy mà bà vẫn rất yêu thương tôi.

Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại đến, bao khốn khổ cứ kéo đến. Bọn ác nhân ấy đốt làng cháy tàn cháy lụi. Chúng tôi mất nhà cửa, phải đỡ đần nhau dựng lain túp lều tranh. Tôi lúc ấy đã đủ lớn để thấu nỗi cơ cực của bà. Vất vả là thế nhưng bà vẫn luôn dặn tôi rằng:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên”Lúc ấy tôi vẫn từng hỏi rằng tại sao phải làm vậy. Bởi lẽ tôi lúc ấy đã rất mệt mỏi với cuộc sống này, muốn được kể hết cho bố nghe, nói ra nỗi lòng của mình rằng tôi đã rất vất vả, mà tại sao bố vẫn không biết. Giờ nghĩ lại, sao khi ấy tôi ích kỉ thế, không nghĩ rằng bố mẹ còn phải lo việc chiến khu căng thẳng. Quả thật, lời bà luôn đúng.

Sớm hay chiều bà luôn nhóm bếp. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với hình ảnh ngọn lửa, bà chính là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm và tỏa sáng trong mỗi gia đình, để đứa cháu như tôi không lớn lên mà không cảm thấy cô đơn vì không được cha mẹ chăm sóc. Ngọn lửa mà bà luôn ủ sẵn trong lòng, ngọn lửa chứa niềm tin một ngày đất nước sẽ được giải phóng của bà, như chuyện cho tôi thêm sức mạnh vào cuộc sống.

Cuộc đời bà lận đận, không biết bao lần chịu đựng vất vả. Mấy chục năm rồi, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là dậy sớm. Bà dậy sớm để nhóm bếp, bếp lửa lan tỏa hơi ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm, khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo thơm nóng, được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của tuổi nhỏ. Cái vị ấy sao mà quen thuộc, thân thương đến thế. Cùng bà sẻ chia niềm vui, cay đắng trong suốt nhiều năm trời, tôi làm sao quên được.

Giờ tôi đã đi xa. Ở nơi đất nước xa lạ này, có ngọn khói trăm tàu, niềm vui trăm ngả nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn rất thiêng liêng. Nó gợi cho tôi về người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình Ngày ngày, bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút cho cháu và mọi người. Không chỉ bằng nhiên liệu thông thường, mà bếp lửa còn được nhóm bằng chính ngọn lửa mà bà luôn giữ trong lòng, của sức sống và niềm tin, một cách kì diệu và thiêng liêng.

Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tôi lại cay. Những kí ức chợt ùa về trong cơn gió mùa đông se lạnh. Tôi nhớ bà, nhớ cả bếp lửa, có vui lẫn buồn. Có lẽ bếp lửa đã trở thành một thứ rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ mà tôi không thể nào quên được. Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - Mẫu 2

Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của đất nước Nga mênh mông, rộng lớn, tôi lại nhớ đến quê hương Việt Nam thân thương của tôi.Nhất là vào những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi run rẩy trong chiếc áo dày cộm ngồi bên lò sưởi. Nhưng lúc đó sao tôi lại thấy lò sưởi sao quen thuộc đến thế! Ngọn lửa ấm áp làm tôi nhớ đến cái bếp lửa của bà tôi quá !

Tôi sinh ra vào thời chiến tranh loạn lạc, cái thời kì mà đất nước bị chia cắt làm hai, cái thời kì mà đất nước bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia đình tôi có một truyền thống yêu nước nồng nàn, nên từ khi tôi còn bé, bố mẹ tôi đã luôn rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gian nan, hiểm trở. Vì vậy tôi đã sống với bà từ những ngày thơ ấu. Tôi có những kỉ niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tinh mơ để nhóm cái bếp lửa chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu ấm áp, nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tần tảo, vất vả của bà sao tôi có thể quên.

Còn nhớ lại cái năm tôi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái năm đói mòn đói mỏi. Tôi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng gia đình, gây nên cái chết thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì đau khổ của dân tộc Việt Nam ta. Bố tôi thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Còn tôi thì vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kì bi thương, đói khổ, chết chóc của dân tộc ta!

Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, bảo ban của bà. Nhớ đến mùa hè năm ấy, tu hú kêu trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp của bà chạm đến trái tim tôi, cho tôi biết thương cảm, yêu thương người khác hơn. Nghĩ đến đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?

Cuộc sống tưởng như yên bình trôi qua trong mắt đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in mãi trong tâm trí tôi. Chúng đốt làng cháy tàn cháy rụi, hình ảnh làng xóm lại trở về lầm lụi, may thay bà tôi sống có nghĩa có tình, được hàng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó tôi sợ đến òa khóc, nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà chăm sóc, bảo vệ bà cháu mình “. Thế mà bà vẫn vững lòng, vẫn còn niềm tin vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh rằng:” Bố ở chiến khu, vẫn còn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà thắm thiết, nhóm lên niềm tin dai dẳng của bà vào cuộc sống, vào tương lai của đất nước.

Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương ngọt bùi của khoai sắn, nhóm lên hương vị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao giờ tắt vì bất cứ lý do gì.

Bếp lửa thật thiêng liêng và mầu nhiệm, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, nó cũng là hình ảnh cho hi vọng niềm chiến thắng của dân tộc tôi, cháy lên không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn ấm áp đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng không đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không niềm vui nào bằng những ngày ở cùng bà, bà ơi!

Nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không người thân thiết làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Chủ đề quê hương, gia đình làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ về tuổi thơ thân thuộc đối với những ai xa quê. Như Tê Hanh quê hương là "làng chài ven biển/nước bao vây cách biển nửa ngày sông", hay Nguyễn Trung Quân "quê hương là chùm khế ngọt/cho con trèo hái mỗi ngày". Nhưng với Bằng Việt quê hương của ông lại là hình ảnh bếp lửa mộc mạc, giản dị. Nghĩ về bếp lửa là nghĩ về bà, nghĩ về quá khứ tuổi thơ đầy khó nhọc, vất vả.Bằng Việt sáng tác bài thơ năm 1963 khi nhà thơ đang theo học ngành luật tại nước Nga. Bài thơ "bếp lửa" được in trong tập "hương cây bếp lửa", tập thơ đầu tay của nhà thơ. Nhà thơ đã kể lại rằng "những năm đầu theo học luật tại đây, tôi nhớ nhà kinh khủng, tháng 9 trời ở bên đó se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà, mỗi buổi sớm đi học tôi hay nhớ hình ảnh bếp lửa thân quen, nhớ hình ảnh nội dậy sớm lụi hụi nấu nồi xôi để sớm mai kịp cho cả nhà cũng ăn". Bài thơ bếp lửa mở đầu gợi lên hình ảnh về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà. Hỉnh ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc và hồi tưởng về bà:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!"

Dòng hồi tưởng bắt nguồn từ hình ảnh thân quen, ấm áp về bếp lửa, hai câu thơ song hành đã làm hiện lên hình ảnh bếp lửa của bà:"Một bếp lửa ấp iu nồng đượm".Còn hình ảnh "bếp lửa chờn vờn" là hình ảnh tả thực, được cảm nhận bằng thị giác. Từ láy "chòn vờn" gợi hình ảnh làn sương lan tỏa, gợi sự bập bùng của ngọn lửa, còn bếp lửa "ấp iu" gợi lên hình ảnh ngọn lửa bùng cháy từ sự chi chút, nâng niu, kiên nhẫn của bà, gợi lên bàn tay khéo léo và tấm lòng của người nhóm lửa. Điệp từ "mọt bếp lửa" gây ấn tượng về hình ảnh bếp lửa gần gũi, thân thuộc với mỗi gia đình người Việt.Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bà "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!" câu thơ diễn tả trực tiếp tình cảm thành lời của tác giả đối với bà. Cụm từ "biết mấy" kết hợp với kết hợp với hình ảnh "nắng mưa" cho thấy được sự vất vả của cuộc đời bà, tình thương bền bỉ của bà cháu theo năm tháng không phải mờ, luôn thường trực trong cháu. Chữ "thương" đi với "bà" là hai thanh bằng đi liền nhau tạo nên sự ngân dài xao xuyến, nỗi nhỡ trải dài của cháu đối với bà.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

Khổ thơ thứ hai nói về những kỉ niệm khi lên bốn của cháu. Đó là những kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với những năm tháng gian khổ, vất vả. đó là những cái đói dài, mệt mỏi, kiệt sức cộng với hình ảnh con ngựa gầy khô rạc, đây là hình ảnh nói về nạn đói của đất nước năm 1945. Với hình ảnh hết sức tiêu biểu nhà thơ đã gợi lên một khung cảnh vô cùng đau thương của người dân mất nước.Ấn tượng sâu đậm trong lòng cháu đó là khói bếp "Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu /Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!" câu thơ vừa tả thực cuộc sông gian khổ, thiếu thốn vừa diễn tả cảm xúc mãnh liệt của tác giả đối với bà về những năm tháng đó nhưng cháu cảm thấy hạnh phúc khi có bà và bếp lửa.Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,Mẹ cùng cha công tác bận không về,Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"Bố đi công tác xa, cháu ở nhà với bà, đó là hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt lúc bấy giờ. 

Tuổi thơ của cháu luôn gắn liền với sự đùm bọc, cưu mang của bà. Bên bếp lửa, bà "hãy kể những câu chuyện ở Huế", chuyện đời thường hàng ngày, chuyện cổ tích đời xưa. Đó là những câu chuyện xưa và nay. Bà bảo ban, dạy cháu học, dạy cháu làm, bà là người cha người mẹ cũng là người thầy, dồn cho cháu hết tình yêu thương, bà là chỗ dựa vững chắc cho cháu. Chỉ có mỗi hai bà cháu chống lại sự khốc liệt của chiến tranh, làm hậu phương vững chắc để người phương xa yên lòng chiến đấu."Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng..."Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh "ngọn lửa" là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, niềm tin, hy vọng và nghị lưc mà bà gieo vào cháu, chính ngọn lửa của bà đã nhen nhóm trong cháu nghị lực và ý chí, thắp sáng niềm tin vào cuộc sống, mà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà bà còn là người giữ lửa. Cả đời bà tần tảo, hy sinh, tháng ngày của bà là những ngày gian truân, vất vả.Hình ảnh bếp lửa vừa kì lạ vừa thiêng liêng: "ôi kì lại và thiêng liêng bếp lửa", đảo ngữ kết hợp hình thức cảm thán, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi khám phá ra những điều kỳ diệu giữa cuộc sống bì dị. bếp lửa bà nhóm không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà bằng chính cả ngọn lửa bên trong của bà, ngọn lauwr của sức sống, lòng yêu thương và niềm tin.Từ hình ảnh bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà cháu hiểu được tình cảm thiêng liêng và cao đẹp mà bà dành cho cháu, cho quê hương. Bếp lửa trở thành một biểu tượng cho tình yêu thương của bà, gần gũi, kì lạ và thiêng liêng, là hình ảnh của quê hương, đất nước. Từ đó hướng con người về với cội nguồn, nơi mà cháu được bà nuôi dưỡng từ ngày ấu thơ."Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?..."

Khổ cuối chính là lời bộc bạch của người cháu nơi phương xa luôn một lòng nhớ tới bà. Cuộc sống vật chất và tinh thần có đầy đủ thì đối với cháu ở bên bà cháu mới thấy hạnh phúc. Dù cháu có đi đâu cũng không bao giờ quên được tấm lòng và sự hy sinh của bà. Nỗi nhớ về bà cũng là nỗi nhớ về quê hương, về cội nguồn, là đạo lý thủy chung của con người Việt Nam.Bài thơ là lời tâm sự bộc bạch của một người cháu nơi phương xa nhớ tới bà, tới mùi bếp lửa thơm rơm, nhưng đó cũng chính là nỗi nhớ về quê hương, về cội nguồn của một con người, dù đi đâu về đâu thì quê hương cũng là bến đậu cho mỗi chúng ta khi trở về.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Bằng Việt là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thường đi sâu khai thác những kỉ niệm thời thơ ấu, gợi nên những khao khát, ước mơ tuổi trẻ. Bếp lửa là một bài thơ im đậm dấu ấn phong cách của ông. Tác phẩm là dòng kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu được ông ghi lại khi đang học tập tại nước ngoài. Qua đó cho thấy tấm lòng kính yêu và niềm biết ơn vô hạn với bà, cũng chính là đối với quê hương, đất nước.Tác phẩm là dòng kỉ niệm, thấm đẫm nỗi nhớ của cháu về những năm tháng tuổi thơ hồn nhiên, luôn có bà ở bên. Để khơi nguồn cho chuỗi kỉ niệm thiêng liêng ấy, tác giả bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa lung linh :

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Điệp từ một bếp lửa vang lên đầy da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Hình ảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi sáng mai là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam trước kia. Bếp lửa chứa chan biết bao tình yêu thương của bà, của mẹ, chứa đựng những vất vả, tảo tần của người phụ nữ Việt Nam. Hai từ láy chờ vờn và ấp iu được tác giả sử dụng tài tình, vừa gợi hình lại vừa thể hiện tình cảm: chờn vờn cho thấy hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy; còn ấp iu lại gợi nên sự tảo tần, đôi bàn tay gầy gò, xương xương những rất đỗi khéo léo của bà. Nhớ về bếp lửa, lòng cháu chợt trào dâng những kỉ niệm, cảm xúc về bà, bởi vậy câu thơ tiếp theo nỗi nhớ được gọi thành tên: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.Sau ánh lửa khơi nguồn cảm xúc, những kỉ niệm về bà như thước phim quay chậm cứ thế lần lượt hiện về trong tâm tưởng cháu. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói cay xè mắt, mùi khói đượm vào trong kí ức, đượm vào trong tâm tưởng nhắc cháu nhớ về những năm đòi mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Đó là những kỉ niệm cay đắng, đau thương, là bóng đen lịch sử ghê rợn khi nạn đói 1945 đã khiến hai triệu đồng bào ta chết đói. Dù cuộc đời nhiều gian nan, khổ cực song chính trong khoảng thời gian ấy, bếp lửa vẫn không thôi bập bùng, vẫn cháy sáng, nồng ấm tình bà. Bởi vậy, cho đến những ngày của hiện tại nhớ về quá khứ, Bằng Việt vẫn thấy Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Đó còn là kỉ niệm về người bà hiền hậu, tảo tần, nuôi và dạy cháu khôn lớn, trưởng thành: Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế/ Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !/ Mẹ cùng cha bận công tác không về/ Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Tám năm ròng sống bên bà, những ngày sống xa cha mẹ nhưng cháu vẫn nhận được tình yêu thương đong đầy, khỏa lấp những chỗ trống từ bà. Bà chi chút từng miếng ăn, giấc ngủ, không chỉ vậy bà còn bảo ban, dạy dỗ cho cháu nên người. Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã ca ngợi công ơn trời biển của bà, bà đã thay cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ cháu từ tấm bé. Nếu không có bà có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công như ngày hôm nay.Đọng lại trong kí ức cháu còn là hình ảnh của một người bà giàu đức hi sinh, gánh vác lo toan mọi chuyện trong gia đình. Những năm giặc càn quét, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm bà trở về dựng lại túp lều tranh: Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi/ Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh, câu thơ cho thấy truyền thống đoàn kết, bao bọc nhau của dân tộc ta, họ luôn tắt lửa tối đèn có nhau. Nhưng điều làm cháu xúc động nhất chính là dù phải chống chọi một mình, thân đã già yếu nhưng bà không một lời kêu ca, oán thán, vẫn vững lòng dặn cháu : Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Bà là tượng đài vĩ đại, là chỗ dựa vững chắc để cho các con yêu tâm công tác chiến đấu. Đọc câu thơ ta có thể cảm nhận được biết bao sự kính trọng, lòng biết ơn vô hạn của người cháu dành cho bà.

Từ những kỉ ức tuổi thơ, cháu suy nghĩ về bà, về tình yêu thương, sự hi sinh và sự tiếp lửa của bà cho thế hệ tương lai: Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ/ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm niềm yêu thương, khoai sẵn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ/ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !. Từ nhóm được tác giả điệp lại bốn lần, vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng về đức hi sinh của bà. Mỗi sớm mai, bà tảo tần nhen lên trong cháu tình yêu thương, san sẻ niềm vui, hạnh phúc với mọi người và hơn cả bà vun đắp, khơi dậy những tâm tình, mơ ước tuổi nhỏ của cháu.Bà chính là người khơi nguồn cho tất cả, tình yêu thương, niềm mơ ước, tương lai và hi vọng trong cháu. Bởi vậy câu thơ cuối vang lên đầy xúc động, tự hào: Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa. Từ ôi kết hợp dấu chấm than thể hiện niềm xúc động trào dâng; kì lạ là biểu tượng cho tình cảm của bà, cho sức mạnh niềm tin và nghị lực. Nó đã thắp lên trong cháu niềm tin, đã giữ tuổi thơ vẹn nguyên hạnh phúc cho cháu; hai từ thiêng liêng lại gợi liên hình ảnh bếp lửa ấm áp, là biểu tượng của tổ ấm, gia đình và rộng ra là quê hương đất nước. Bởi vậy, dù cháu đã đi xa có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả, cuộc đời đã có nhiều biến thiên thay đổi nhưng tình yêu và nỗi nhớ của cháu về bà vẫn vẹn nguyện, hiện hữu từng ngày: Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:/ - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?. Khi càng khôn lớn trưởng thành tác giả lại càng cảm nhận rõ sự quan trọng của hơi ấm, tình cảm gia đình, điều đó càng khiến ơn với công lao to lớn của bà và thêm yêu cuộc đời, yêu đất nước hơn.

Với những hình ảnh chân thực gần gũi, giàu giá trị biểu tượng, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm bà cháu sâu sắc, nồng đượm. Tình bà cháu, tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất, đáng trân trọng nhất bởi vậy bài thơ cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải biết sống yêu thương, trân trọng những tình cảm gia đình thiêng liêng, cao quý.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn nhân,nghệ sĩ. Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng bà mắng yêu, với hình ảnh "Tay bà khum soi trứng" thì Bằng Việt lại khiến ta nhớ mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: "Bếp lửa"."Bếp lửa" như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kỉ niệm ấu thơ bên bếp lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách bế trong làn sương buổi sớm được đôi tay bà "ấp iu", chở che. Hình ảnh "Một bếp lửa ấp iu nồng đượm" gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lửa cháy lên, sáng lên và khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.

Và rồi trong kí ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước phim quay chậm, đó là kỉ niệm "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Lời thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thương, cùng điệp ngữ "tu hú kêu" và câu hỏi tu từ "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?" gợi về nhiều những câu chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe. Trong những năm tháng cha mẹ đi công tác xa, bà và cháu quấn quýt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi dưỡng, săn sóc "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu học", "bà chăm cháu làm". Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,...Bên bà, có lẽ cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy, cháu nhớ như in lời dạy của bà:

"Bố ở chiến khu bố cn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"

Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnh màn trời chiếu đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu, phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi khó khăn khốc liệt. Tuy bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà vẫn giã gạo nuôi bộ đội trong "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm,... Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca là người "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang",...Bà chính là người tiêu biểu cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay...Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

"Bếp lửa bà nhen" là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nhóm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ có sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ dành cho cháu, bù đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha. "Ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng" là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm bếp lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại.

Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng mưa nhưng bà vẫn "giữ thói quen dậy sớm"- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:

"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"

Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nhóm lên tình yêu thương mà bà đã dành cho cháu, nhóm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nhóm lên tình đoàn kết với hàng xóm, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa mà bà nhen, cháu đã khôn lớn cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,...Từ bếp lửa thiêng liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu.Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Lời thơ của Bằng Việt thủ thỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy. Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,...nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên.

Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta...Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,... và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng....

Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế...Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi...có bà!

Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết...

”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người...”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi...? Bà đang nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu...

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ “chờn vờn” sưởi ấm cả gian nhà vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa đông khi hai bà cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ.

Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia...?

"Ấp iu”- gợi một bàn tay nhen nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân cần. Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng ta thấy hình ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhóm lên ngọn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho cháu.

Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian nan, vất vả và từng trải! Chỉ một từ “thương” thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho cả đoạn. Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, “nắng mưa”, khó khăn, gian truân đời bà!

Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình thương là vị muối mặn của tình người, là chất keo của mối gắn bó. Chữ “thương” vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người.

Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ “thương” đã có thể thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương cồn cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi cạnh bà dưới ấm áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương... Hình ảnh bà “biết mấy nắng mưa” cứ rõ dần, tỏ dần với sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ...:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Kỉ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Những năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi lên bốn, đó chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và dai dẳng, “đói mòn đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào quên- cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy!

Bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy giờ là cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã làm chết hơn hai triệu người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn ám ảnh dai dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, như thể vừa mới “hun nhèm” thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn trong tim, trong tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ.

Cay vì khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ họng và dường như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, củ sắn, hay là giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng khi sắp được ăn cho thỏa nỗi thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng, lúc bà đang lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon, nhưng hồi ấy là cả một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh bằng, cả một điều lớn lao, vĩ đại!

“...Cái năm đói củ rong rềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)

Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ niệm không thể quên của đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái đắng của những đói khổ không chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác nữa! Đến người còn không có ăn, nói chi “người gầy” "khô rạc” là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe chạy chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội.

Đó cũng là một kỉ niệm còn neo lại nơi tâm trí cháu, trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không quên! Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng... Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy...Trong lòng cháu...!

Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa,...cứ đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,“cháu cùng bà nhóm lửa”, vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám.

Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn thương thế! Nó ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ dội về hiện tại, làm kỉ niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỉ niệm ấy, có cả đắng và ngọt, cô đơn và hạnh phúc! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.

Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa, lâng lâng trong lòng người cháu xa xứ. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.

Hạnh phúc tưởng chừng như nhỏ bé mà lại là thiêng liêng và lớn lao nhất của cuộc đời mỗi con người, là hạnh phúc gia đình, là phút giây sung sướng đến tột cùng khi được trông thấy đứa con-hình hài yêu dấu-món quà vô giá mà cuộc đời ban tặng cho mình- cất tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được một căn nhà, một tổ ấm-nơi nương tựa vững chãi nhất trong những phút giây bi quan, yếu lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc đời-con người ta tìm về để được an ủi, sẻ chia một cách chân thành!

Ấy vậy mà loài chim tu hú đâu có được niềm hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng, đẹp đẽ nhất cuộc đời ấy! Tiếng kêu của chúng trở vì vậy trở nên khắc khoải, mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó tha thiết lắm...Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu, làm sục sôi khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên:

“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi!
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”

Tiếng kêu đầy khao khát và khắc khoải ấy cũng xuất hiện ở nỗi nhớ da diết về quê hương và bóng người cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô con gái tuổi thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh Thơ:

“Rồi tiếng chim tu hú
Vang suốt những mùa hè
Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê!”

Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không gian xa vắng của nỗi nhớ thương...Và bà ơi khi tu hú kêu, thì đó cũng là lúc “Bà hay kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện ấy, rất dài mà rất hay, thấm thía, hơn thế nữa, nó còn được kể qua chất giọng ấm áp, chậm rãi, chan chứa cảm xúc và tình yêu thương của bà.

Có thể đó là những chuỗi ngày hạnh phúc khi gia đình ở Huế, bà cũng là người hoài niệm, sâu sắc và đầy suy ngẫm...Cũng có thể đó là rất nhiều những câu chuyện,...giống như những câu chuyện mà bà hay kể “hồi còn ở Huế”! Vậy ư? Thế thì nhiều lắm lắm! Trong kho tàng chuyện ấy, có thể, tuổi thơ cháu đã ướp đậm vị ngọt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình vào thế giới nơi có cô Tấm thảo hiền, có chằng Thạch Sanh dũng cảm, có mẹ con nhà Cám độc ác, tàn nhẫn, có mẹ con Lí Thông gian xảo, mưu mô,...có cái thiện cũng như cái ác.

Và hơn hết, cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác! Nhắc tới tuổi thơ, người ta bao giờ cũng nghĩ ngay đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ hay kể cho con trẻ nghe, rồi bảo chúng rút ra bài học, hoặc răn dạy những điều hay, lẽ phải từ câu chuyện ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn giản, dễ hiểu, mà lại vừa sâu sắc, thấm đẫm tình...

Bà đã ươm lên và nuôi dưỡng trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ khi còn thơ dại một mầm cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngời, nó là cái gốc để phát triển thành những thân, những cành, những hoa, lá, những quả... sau này!

“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Những câu thơ tiếp theo làm hiện lên một căn nhà quạnh hiu, lạnh lẽo giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ! Cùng bà, ngày nào cháu cũng nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu chuyện cổ huyền ảo của cháu.

Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với cháu, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng cháu.Tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với cháu. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu.

Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,...

Nhà thơ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người khi nghĩ lại những ngày tháng đã xa...Xen lẫn trong đó là một niềm tự hào vì mình có bà của đứa cháu ngây thơ trước những con chim tu hú bơ vơ cứ “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” ngoài kia!

Cháu thương bà và cũng thương tu hú nữa! Vì cảnh ngộ của hai bà cháu ta sao mà giống tu hú thế! Cũng hiu quạnh, cô đơn, cha mẹ thì “bận công tác không về” mất rồi! “Tu hú ơi, hãy về ở cùng bà đi, bà sẽ chăm sóc cho tu hú, như là bà đã chăm sóc cho ta, và tu hú sẽ không phải bơ vơ nữa! Tu hú về với bà, thì cả bà và tu hú sẽ cùng bên nhau, không ai cô đơn cả!”

Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Tình yêu thương của bà dành cho cháu, của cháu đối với bà đã để lại trong lòng cháu những kỉ niệm không bao giờ nhạt phai và nó luôn sống mãi bởi âm thanh tiếng chim tu hú da diết ấy luôn âm vang trong tim cháu, như tiếng lòng thổn thức của cháu luôn nhớ mong về bà...

Trong Bếp lửa tác giả đưa hình ảnh này ra để nỗi đau riêng hòa vào nỗi đau chung của cả dân tộc, hoàn cảnh chung của cả nước:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn,tài sản lớn nhất của một đời người đã bị “cháy tàn cháy rụi”-cháy sạch sành sanh, không còn nguyên vẹn một thứ gì, nói đúng hơn là không còn gì để mà cháy, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.

Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình, tinh thần lắm, ý chí lắm, niềm tin của bà mạnh mẽ lắm, trong khi “ hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”-cảm nhận như có một sức mạnh vô hình nào đó cứ làm người ta cúi gắm, cúi gằm mặt xuống vì đau đớn đến não nề, không nói được một lời nào!

Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu, luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào cách mạng khi nhắc cháu viết thư vẫn bảo nhà bình yên để bố mẹ an tâm công tác chiến đấu.Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”.

Bà lại làm lại từ đầu, từ “lại” trong câu thơ thể hiện sự chắt chiu, sự bắt đầu làm lại sau những khó khăn, thiếu thốn! Bà vẫn “nhen” lên bếp lửa “rồi sớm rồi chiều”, dù “nhen” thì khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất cũ của ngôi nhà đã bị đốt “cháy tàn cháy rụi”, bà nhen lên một sự sống mới, mãnh liệt hơn, dai dẳng hơn, bởi trong lòng bà “một ngọn lửa luôn ủ sẵn”, “một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”!

Đó chính là ngọn lửa mà bà đã truyền cho cháu-sức mạnh và niềm tin, để cháu vững lòng vượt qua những khó khăn, thử thách đầu đời giống như bà đang cố gắng đây! Giặc Pháp có thể phá làng, đốt nhà, nhưng không thể dập tắt đi ngọn lửa, ấm áp cháy mãi trong lòng bà! Ngọn lửa “chứa niềm tin dai dẳng”, ngọn lửa mang tình yêu thương của bà, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi, ngọn lửa hi vọng vào một tương lai tốt đẹp cho tổ quốc, cho lẽ sống thiêng liêng, cao đẹp của cả dân tộc!

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Bà- một con người nhỏ bé mà vĩ đại vô cùng! Bà đốt lên ngọn lửa cháy vĩnh hằng trong tim cháu bằng ngọn lửa mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, bà sưởi ấm lòng cháu trong suốt những năm tháng đã qua bằng ngọn lửa yêu thương vô bờ!

Bà nâng bước cháu đi trên con đường đời bởi ngọn lửa của niềm tin bất diệt ấy, bà truyền cho cháu hơi ấm tình thương và bà sáng mãi như một ngọn lửa...Không bao giờ tắt...!Bốn tuổi cháu biết cái đói, tám tuổi cháu hiểu những câu chuyện của bà, rồi biết chiến tranh đau khổ, gian lao của đất nước, và bắt đầu có niềm tin mà bà nhen lên trong cháu...Và giờ đây, cháu cảm được...:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Nếu ở câu thơ đầu chỉ là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, sau một dòng chảy dài của cảm xúc dâng trào chảy theo hồi ức thơ ấu, thì giờ đây câu thơ đã kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu sa: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”! Cả câu thơ dồn vào hai từ “lận đận”-làm việc gì cũng không thành, cứ long đong, vất vả và khó nhọc như thế suốt cả một đời!

Đó phải là một khoảng thời gian dài, một quá trình lâu để cảm biết và hiểu sâu sắc, có lớn lên, có trưởng thành và từng trải thì mới thấm thía, thấu hiểu lắm lắm như thế về cuộc đời bà. Câu thơ tuy không bộc lộ cảm xúc như câu thơ trước, song, còn ý nghĩa và sâu xa hơn thế! Chữ thương như lặn vào trong trái tim, trong đáy lòng sâu thăm thẳm của cháu, khắc sâu vào tâm khảm cháu.

Đó là một suy ngẫm rất “chín” qua cách nhìn nhận của cuộc đời ở góc độ tuổi trưởng thành của cháu về bà, về những thăng trầm, những “mưa”, những “nắng”, những “lận đận” mà đời bà đã trải qua! Và rồi cứ như thế, bà vẫn hi sinh âm thầm lặng lẽ, mà “Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Một sự vất vả, khó nhọc mà cũng trở thành thói quen trong cuộc đời người bà đầy gian truân, trắc trở ấy! Bà cứ lặng thầm, lặng thầm như thế, để rồi:

“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.

“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong cổ tích, bà tô màu hồng lên trên màu xám trong tuổi thơ cháu, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”!

Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người, bà nuôi dưỡng tâm hồn cháu ngay từ những ngày còn thơ dại để tạo gốc rễ cho sự hình thành tốt đẹp mãi tới tận mai sau! Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim.

Bà làm cho kỉ niệm những năm tháng ấy trở thành bóng tre rợp mát đi theo suốt cuộc đời cháu, khiến cháu thốt lên trong những xúc động nghẹn ngào: “Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa!” Tình thương và lòng nhân ái, bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng trường tồn. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng cháu.

Bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành ngọn lửa luôn cháy mãnh liệt và sưởi ấm tim cháu! Để rồi giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà, cảm giác nhớ nhung da diết cồn cào những hồi ức quá đẹp đẽ, ấm áp bên bà và hình ảnh bả luôn thường trực trong tâm khảm của người cháu:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Bài thơ được kết lại trong một câu hỏi tu từ. Đó là một nỗi đau đáu nhớ về bà! Nhà phê bình Văn Giá nhận xét:”Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thiết thân nhất. Họ giữ cho ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, biến cố, thành bại ở đời.

Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những làn sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.” Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong mùa đông lạnh giá của nước Nga.

Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó, trong vòng tay yêu thương chở che của bà và trong trái tim cháy bỏng một ngọn lửa chan chứa niềm tin, tình yêu thương bà dành cho cháu...

“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)

Nào, giờ thì hãy nhắm mắt lại một lúc, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên... Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta. Những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ luôn có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời!

Bà đã hiện về trong từng câu thơ chan chứa cảm xúc, tim bà mang một ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời cháu.... Trong lòng cháu... Thuở ấu thơ... Giờ đây... Và mãi mãi...

Phân tích bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.

Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết.

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Khổ thơ đầu chỉ vỏn vẹn ba câu nhưng đã khắc sâu hình ảnh "bếp lửa" trong kí ức của tác giả. Từ bao đời nay, bếp lửa đã trở thành một vật dụng quá đỗi quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân làng quê Việt Nam. Đó là nơi đun nấu những bữa cơm ngon lành và ấm cúng cho cả gia đình sau một ngày làm việc. Là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn, là không khí sinh hoạt gia đình đầm ấm, yên vui. Trong mỗi gia đình, không thể không có một bếp lửa.

Có lẽ vì những điều ấy nên đang sống ở xứ người lạnh lẽo, tác giả chạnh lòng nhớ về bếp lửa của quê nhà:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Ba tiếng "một bếp lửa" được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh "bếp lửa" như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.

Từ láy "chờn vờn" có sức gợi tả rất lớn. Nó vẽ nên một ngọn lửa không định hình, lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn cháy cao, tỏa sáng một cách mãnh liệt. Hình ảnh ấy vừa giúp ta hình dung làn sương sớm lành lạnh đang nhẹ vờn quanh bếp lửa bập bùng, lại vừa rất thích hợp để gợi lên cái mờ nhòe của ký ức theo thời gian, của những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn có sức ám ảnh day dứt...

Từ láy "ấp iu" cũng là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy đơn thuần là sự kết hợp và biển thể của hai từ "ấp ủ" và "nâng niu". Một bếp lửa ủ than hồng nồng đượm nhờ có bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp.

Từ hình ảnh "bếp lửa", ta liên tưởng đến hình ảnh người nhóm bếp: người mẹ, người chị và đặc biệt trong bài thơ này là người bà - người phụ nữ cả một đời vất vả lo toan cho cháu, chăm lo, vun vén cho cuộc sống của cháu trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và gian khổ.

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhòe lẫn trong nhau đó là "bà" và "bếp lửa". Trong hồi tưởng của người cháu, hình ảnh bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu thương của bà dành cho cháu và những người thân. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút.

Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Bếp lửa ấy cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ. Chính vì điều đó, khi nghĩ đến bếp lửa, hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ trong tâm trí của nhà thơ.

Vào đề chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến hai lần điệp ngữ "một bếp lửa". Phải! Chỉ một bếp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ để gợi về cả một quá khứ, một tình yêu thương mãnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp đi như tô, như khắc đậm thêm tình yêu thương của cháu đối với bà. Người cháu, dù đã cố kìm nén, cũng không thể nào giấu được nỗi lòng của mình:

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Chữ "thương" diễn đạt rất chân thật, giản dị, không một chút hoa mỹ như chính tấm lòng của đứa cháu đối với bà. Chính cách nói gây xúc động đối với người nghe. Ta nghe như tiếng thơ đang thổn thức...

Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.

Và chính tình thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"

Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.

Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.

Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ "đói mòn đói mỏi" đã diễn tả xúc động về cái khổ của con người, của cuộc sống trong thời kỳ đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:

Phân tích bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.

Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ùa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay

Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi "cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.

Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.

Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi

Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt.

Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở ký ức luôn sống mãi, không quên.

Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.

Ý nghĩa nhan đề bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1

Bếp lửa là hình ảnh thân thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, gợi hơi ấm gia đình, bàn tay tần tảo sớm hôm của người phụ nữ, người bà; gợi tình cảm gia đình ấm áp, tình bà cháu yêu thương. Bếp lửa trong bài thơ còn là biểu tượng cho cội nguồn gia đình, quê hương, đất nước; cho những gì gần gũi, thân thiết đối với tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bếp lửa vừa là hình ảnh thực vừa là một hình tượng nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm.

Ý nghĩa nhan đề bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2

- Bếp lửa là một hình ảnh đầy sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng:

+ Trước hết đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi với mỗi người Việt Nam. Nó là hình ảnh của kỉ niệm ấu thơ gắn với bóng dáng một người bà cụ thể, có thật của nhà thơ.

+ Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu thương của người bà dành cho cháu con trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh để trưởng thành, khôn lớn .Bếp lửa là tình bà ấm nồng, bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hy vọng cho cháu con, cho mọi người.

+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn… có ý nghĩa thiêng liêng nâng bước người cháu trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

+ Với ý nghĩa như vậy, “Bếp lửa” thành tên gọi của bài thơ cảm động về tình bà cháu giản dị, thiêng liêng, qua đó thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất nước sâu sắc…

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

- Ông bắt đầu sáng tác thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.

- Hiện nay, ông là Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.

- Một số tác phẩm như:

  • Tập thơ Hương cây - Bếp lửa, (1968, 2005), đồng tác giả với Lưu Quang Vũ.
  • Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ, 1972 - 1973)
  • Đất sau mưa (1977)
  • Khoảng cách giữa lời (1984)
  • Cát sáng (1985), in chung với nhà thơ Vũ Quần Phương
  • Tập thơ Bếp lửa - Khoảng trời (1986)
  • Phía nửa mặt trăng chìm (1995)
  • Tập thơ Ném câu thơ vào gió (2001)
  • Tập thơ Nheo mắt nhìn vào gió (2008)
  • Tập thơ Hoa tường vi (tập thơ, 7 - 2018)..

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài.

- Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây - Bếp lửa” (1968). Đây là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

2. Bố cục

- Phần 1 (khổ thơ đầu): Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về bà của người cháu.

- Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp) Những kí ức tuổi thơ khi còn sống cùng bà, gắn liền bếp lửa

- Phần 3 (khổ thơ thứ 6) Suy ngẫm của người cháu về cuộc đời bà

- Phần 4 (khổ cuối): Tình cảm của cháu dành cho bà, dù đã khôn lớn.

3. Nội dung chính

Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

4. Phương thức biểu đạt: Tự sự biểu cảm

5. Thể thơ: kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ,8 chữ

6. Giá trị nội dung

- Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

7. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.

- Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

Tài liệu có 25 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống