TOP 24 bài Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 10 3.3 K 1

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 24 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

KỂ LẠI CUỘC GẶP GỠ NGƯỜI LÍNH LÁI XE TRONG BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 1

Ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam sắp đến gần, nhà trường vui mừng thông báo đến chúng tôi năm nay sẽ được gặp gỡ, giao lưu với đoàn cựu chiến binh. Điều ấy làm ai cũng hết sức háo hức, vui sướng, được nghe các bác kể về chuyện diệt Mỹ là điều tuyệt vời nhất. Và trong buổi gặp ngày hôm ấy, tôi đặc biệt ấn tượng với một chú đầu đã bạc, trên ngực đầy những huân chương, gương mặt đã già nhưng vẫn đậm chất ngang tàng, trẻ trung. Qua lời giới thiệu tôi đươc biết chú chính là một trong những người lính lái xe trong đoàn xe không kính xuất hiện trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Thật khó lòng có thể tưởng tượng được, người lính trẻ trung, ngang tàng, tinh nghịch năm xưa giờ ai nấy cũng đĩnh đạc, oai nghiêm đến như vậy. Chú có dáng người cao, hơi đậm người, dù đã lớn tuổi nhưng giọng nói vẫn rất khỏe và vang. Có lẽ chính trong những năm kháng chiến trường kì đã tôi rèn sức khỏe cho người lính. Bên ngoài vẻ già dặn, từng trải ta vẫn thấy nét gì đó rất đáng yêu, hóm hỉnh của người lính năm xưa. Sau những lời giới thiệu, chú kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời người lính vận tải trên tuyến đường Trường Sơn ngày đêm bị Mỹ ném bom ác liệt. Vào những năm đó, tuyến đường Trường Sơn là tuyến đường trọng điểm nên thường xuyên bị máy bay Mỹ ném bom, những con đường bị quần nát, cây cối hai bên đường trơ trụi,… chúng quyết tiêu diệt chúng ta cho bằng được. Tuy nhiên, chúng càng ném bom, tinh thần của những người lính càng được nâng cao, ai cũng mang trong mình quyết tâm lớn, hi sinh tất cả vì miền Nam ruột thịt. Bởi vậy, hàng ngày, hàng đêm các đoàn xe vẫn anh dũng tiến về phía trước, mặc mưa bom, bão đạn để tiếp tế cho miền Nam.

Top 16 bài Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất (ảnh 2)

- Các cháu có lẽ không thể tưởng tượng hết những khó khăn, gian khó mà thế hệ chú đã phải trải qua. Đó là những năm tháng tuy nguy hiểm, ác liệt mà anh dũng hào hùng. Cũng bởi những chiếc xe phải đi trong những cơn mưa bom bão đạn như vậy nên hầu hết các xe vận tải không còn xe nào có kính, những chiếc xe bị biến dạng nghiêm trọng, mui xe xước chằng chịt vì va quệt, những chiếc xe không có đèn mà vẫn băng băng trong đêm tối, đường rừng Trường Sơn với biết bao nguy hiểm.

- Đường tối, lại không có xe, vậy các chú làm thế nào để có thể đi được ạ?

- Cháu có câu hỏi thật hay. Các cháu biết không, các chú đi bằng trái tim, bằng ý chí quyết tâm. Lúc ấy trái tim nhiệt huyết sẽ soi sáng con đường chú đi, chính vì vậy dù đêm tối cũng không thể ngăn cản những nhịp bánh xe lăn. Không chỉ vậy, đi trên những chiếc xe không kính cũng là một trải nghiệm vô cùng thú vị. Những đêm trên đường vận chuyển lương thực, vũ khí với tốc độ di chuyển nhanh gió và sao như ùa cả vào buồng lái. Gió mạnh táp thẳng vào mặt khiến ai nấy đều đỏ ửng cả mặt mũi. Nhưng không chỉ có vậy, những hôm quang trời, đường khô, bụi cuốn tung lên, phả vào trong xe khiến khuôn mặt ai cũng được tráng một lớp phấn trắng xóa, tóc bạc chẳng khác người già. Các chú nhìn nhau, thích thú cười ha ha. Những ngày mưa ngồi trong cabin mà chẳng khác ngồi ngoài trời, mưa xối thẳng vào buồng lái. Nhưng các chú không ai dừng bước, vẫn tiến lên phía trước, gió lùa chẳng mấy chốc mà quần áo sẽ khô.

Từ phía xa vọng lên tiếng hỏi:

- Thưa chú, vậy những năm tháng oanh liệt, hào hùng ấy điều gì làm chú ấn tượng mãi không quên?

- Trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh có lẽ tình cảm đồng chí, đồng đội là điều khiến chú không thể nào quên. Nó là nguồn sức mạnh tinh thần và nguồn động viên to lớn khiến các chú có thể luôn vững vàng tay lái, tiến lên phía trước. Những đoàn xe ngược xuôi nối đuôi nhau ra chiến trường, tình cờ gặp gỡ các chú sẽ bắt tay nhau qua những ô cửa kính vỡ. Cái bắt tay vội vã mà ấm áp, đã truyền lửa, truyền thêm sức mạnh cho các chú. Trong những giờ phút nghỉ ngơi hiếm hoi, các chú quần tụ lại với nhau, nấu một bữa cơm giữa rừng, chỉ có cơm trắng, rau rừng đạm bạc nhưng thật ngon biết bao, bởi nó ấm áp tình người, tình đồng chí, đồng đội. Sau những bữa cơm vội vã, các chú lại nhanh chóng lên đường cho kịp thời gian. Những năm tháng đó tuy gian khổ, luôn phải đối mặt với nguy hiểm và cái chết sẵn sàng ập xuống bất cứ lúc nào nhưng đó cũng là những năm tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời. Các chú được sống trong tình đồng đội, luôn được quan tâm sẻ chia, hơn hết được phấn đấu vì mục đích, lí tưởng cao đẹp vì miền Nam độc lập, thống nhất đất nước.

Buổi lễ kết thúc, trong lòng ai cũng dâng lên cảm xúc tự hào và biết ơn sâu sắc với thế hệ trước. Nếu không có sự hi sinh của các chú thì ngày hôm nay sẽ không có cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho chúng tôi. Bởi vậy, là một học sinh, tôi luôn tự nhủ phải luôn luôn nỗ lực, phấn đấu không ngừng, xây dựng đất nước, báo đáp công ơn thế hệ đi trước.

Sơ đồ tư duy

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Tình huống: trong cuộc sống, có những người ta chỉ gặp một lần, chỉ trò chuyện chốc lát nhưng cũng đã để lại nhiều dấu ấn, tác động sâu sắc đến cuộc sống chúng ta. Thật may mắn và tình cờ, tôi đã được gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. 

- Suy nghĩ bản thân: Cuộc gặp gỡ và trò chuyện ấy đã tác động rất nhiều đến suy nghĩ và tình cảm của tôi.

2. Thân bài:

- Kể lại tình huống được gặp gỡ, trò chuyện với người lính lái xe (Nhà trường tổ chức cho lớp đi thăm nghĩa trang Trường Sơn ngày 27-7. Ở đó, tôi được biết người quản trang chính là người lính Trường Sơn năm xưa…)

- Miêu tả người lính đó (ngoại hình, tuổi tác, …)

- Kể lại diễn biến cuộc gặp gỡ và trò chuyện:

- Tôi hỏi bác về những năm tháng chống Mỹ khi bác lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

- Người lính kể lại những gian khổ mà bác và đồng đội phải chịu đựng: Sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn của kẻ thù là xe bị vỡ kính, mất đèn, không mui.

- Người lính kể về tinh thần dũng cảm, về tư thế hiên ngang, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ trước bom đạn kẻ thù, trước khó khăn, gian khổ -> Những suy nghĩ của bản thân (xen miêu tả nội tâm + Nghị luận)

3. Kết bài:

- Chia tay người lính lái xe.

- Suy nghĩ về cuộc gặp gỡ, trò chuyện:

- Những câu chuyện người lính kể cho tôi nghe tác động rất nhiều đến suy nghĩ và tình cảm của tôi.

- Tôi khâm phục và tự hào về thế hệ cha ông anh dũng, kiên cường đánh giặc và làm nên chiến thắng vẻ vang.

- Tôi thấm thía hơn giá trị thiêng liêng của chủ quyền tự do, độc lập mà dân tộc ta đã đổ bao xương máu mới giành được.

- Liên hệ với bản thân: phấn đấu học tập, tu dưỡng.

Top 16 bài Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 2

Nhân ngày Thương binh liệt sĩ ngày 27/07, tôi cùng bà đến nghĩa trang tỉnh, thắp nén hương cho người ông đã hi sinh vì khói lửa chiến tranh. Mỗi lần đến đây, lòng tôi lại có chút gì đó đượm buồn, hẳn đó cũng là tâm trạng của mọi người đang đứng tại nơi đây. Tôi khẽ nhìn xung quanh, đứng cạnh tôi là một người lính đang khẽ cúi đầu trước một nấm mộ. Bà và tôi cùng trò chuyện với chú ấy, và bất ngờ thay, chú chính là người lính lái xe được miêu tả trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mà tôi vừa mới học vào tháng trước.

Anh lính trẻ năm nào giờ đã trở thành một con người chững chạc, già dặn. Chúng tôi và chú cùng ngồi xuống một hàng ghế gần đó mà kể nhau nghe những kỉ niệm vui buồn. Giọng của chú trầm và ấm quá, chen lẫn trong tiếng cười hào sảng là chút hoài niệm về những tháng ngày chiến tranh khốc liệt. Biết tôi rất thích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, chú nhìn tôi mà cười hiền từ. Chú kể rằng, ngày ấy chú là một trong những người lính lái xe “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mang biết bao vũ khí, lương thực, thuốc men,… tiếp tế cho miền Nam ruột thịt. Nơi chú đi qua là tuyến đường Trường Sơn - cũng chính là tuyến đường huyết mạch thường xuyên hứng mưa bom bão đạn của quân Mỹ trong thời gian năm 1969. Mưa bom, bão đạn đã khiến cho xe của các chú “không có kính”. Vất vả, gian lao, hiểm nguy là thế nhưng vì sự nghiệp giải cứu Tổ quốc, chú và các đồng đội đã đối mặt với thử thách bằng một thái độ rất lạc quan, hào sảng:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Cháu biết không? Xe không có kính, tưởng bất tiện vậy mà lại tạo niềm vui nho nhỏ trên quãng đường đầy khói lửa của bọn chú đấy! Tại buồng lái ấy, bọn chú đã tận hưởng những năm tháng của tuổi trẻ với gió, với con đường, rồi cả sao trời, cánh chim,… Thật là hoài niệm quá cháu nhỉ?

Chú vừa kể vừa nở một nụ cười hiền lành. Tôi phần nào tưởng tượng ra những anh lính trẻ lạc quan, tìm niềm vui trong những khó cực. Họ là những con người phải sinh ra và lớn lên trong thời kì chiến tranh loạn lạc, nghe tiếng gọi lên đường mà giải phóng quê hương. Lái những chiếc xe không có kính qua một chặng đường dài hẳn là một việc không hề dễ dàng. Nào là bụi, là mưa, là gió,… cứ tạt thẳng vào người cầm lái. Đau chứ, lạnh chứ, nhưng những người lính trẻ ấy luôn xem đó là một điều hiển nhiên mà vui vẻ chấp nhận. Tôi thoáng hình dung ra nụ cười hồn nhiên trước đất trời của những con người quả cảm “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Video bài văn mẫu Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Trên suốt chặng đường hành quân, người lính đã gặp và làm quen với nhiều đồng đội khác, “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Chú kể rằng, dù là ai đi chăng nữa, nếu đã gặp trên đường ra trận thì chẳng khác nào anh em một nhà. Những khoảnh khắc bình yên bên bếp cơm ấm nóng, bên chiếc võng đu đưa,… luôn là một kí ức đẹp luôn đọng mãi trong lòng chú. Theo như lời chú kể, càng tiến tới gần miền Nam, độ dữ dội của các trận bom như được tăng cao. Những chiếc xe giờ đây dường như biến dạng “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước”, ấy vậy mà, những chiếc xe ấy vẫn bon bon hướng về tiền tuyến, vẫn hiên ngang chạy giữa cuộc chiến khốc liệt. Bởi, chú tự hào rằng, xe có thể hỏng nhưng những trái tim trong xe, luôn tràn đầy tình yêu hướng về miền Nam.

Ánh nắng đã dần lên cao, soi sáng gương mặt rạng rỡ, ấm áp nhưng có chút đượm buồn trước sự hy sinh của đồng đội trong đôi mắt chú. Nhìn chú như vậy, tôi càng thêm kính quý những con người đã ngã xuống vì nền hòa bình của đất nước, càng tự dặn lòng phải cố gắng rèn luyện để mai này trở thành một con người có ích cho quê hương.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 3

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.

Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc – Nam. Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:

– Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì "bom rơi đạn lạc" như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe vận tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị "bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào "châu chấu đá xe", Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân để đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không có vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.

Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt của các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: "Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua dược thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ". Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt được thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.

Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khăn. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, siết chặt tình đồng đội. Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.

Ánh nắng đã dần lên cao, soi sáng gương mặt rạng rỡ, ấm áp nhưng có chút đượm buồn trước sự hy sinh của đồng đội trong đôi mắt chú. Nhìn chú như vậy, tôi càng thêm kính quý những con người đã ngã xuống vì nền hòa bình của đất nước, càng tự dặn lòng phải cố gắng rèn luyện để mai này trở thành một con người có ích cho quê hương.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 4

Hè vừa qua tôi được về thăm quê nội, điều làm tôi vô cùng bất ngờ và sung sướng đó là được ngồi cạnh một người lính mà trước đây chính là người lái xe trong đội xe được Phạm Tiến Duật miêu tả trong bài thơ: Tiểu đội xe không kính năm đó.

Người lính của tiểu đội xe không kính năm đó bây giờ đã già, mái tóc đã điểm bạc, ông bùi ngủi kể cho tôi nghe những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến, về những kỉ niệm của tiểu đội xe không kính huyền thoại. Thời điểm đó cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, những con đường huyết mạch luôn được bảo vệ chặt chẽ, bom đạn của kẻ thù cũng tập trung bắn phá ở những nơi đây. Ngày đó chú làm nhiệm vụ lái xe vận chuyển lương thực vũ khí cho tiền tuyến và đi qua con đường Trường Sơn lịch sử.

Với sự đánh phá dữ dội của giặc Mĩ, những chiếc xe ấy đã bị tàn phá, mất kính, mất đèn, thậm chí mất cả mui xe. Bom đạn ác liệt, ngồi trên chiếc xe không được bảo vệ nhưng lúc đó trong người những chiến sĩ chúng tôi chỉ có ý chí chiến đấu, nên vẫn ung dung, thản nhiên. Không có vật chắn, các chú càng dễ dàng nhìn mọi vật xung quanh mình, nhìn trời, nhìn sao, và thấy yêu quê hương hơn, có tinh thần chiến đấu hơn.

Lái xe không có kính nên bụi bám đầy người, mỗi khi dừng lại, đồng đội nhìn nhau thấy người nào cũng trắng xóa thì cứ cười ha ha với nhau. Đến giờ đi, các chú lại ngồi lên những chiếc xe đó. Bom đạn ngày đêm vẫn dội trên đầu, ngay sát chân, sống chết rất mong manh nhưng những người chiến sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, yêu đời, coi cái chết nhẹ nhàng, không có gì đáng sợ cả Người chiến sĩ ấy đã kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó chú luôn được gặp những người bạn, những người đồng đội của mình. Có những người chỉ gặp một lần rồi mãi mãi ra đi. Họ bắt tay nhau qua ô cửa kính để sưởi ấm tình đồng đội. Nhiều khi họ dùng bữa cơm cùng nhau bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát, đôi đũa dùng chung, quây quần bên. Người chiến sĩ lặng người đi khi nhắc đến những kỉ niệm nghĩa tình ấy. Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa, kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi qua. Không chỉ kể những chuyện về tiểu đội xe của mình, người chiến sĩ còn cho tôi thấy được sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong. Nhiệm vụ của các cô là luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt.

Tôi hỏi người chiến sĩ rằng, các chú đi trên những chiếc xe trong hoàn cảnh như vậy mà các chú cứ đi phăng phăng được sao? Người chiến sĩ ấy đã nói một câu làm tôi thật sự xúc động. Các chú chạy phăng phăng để giành lại độc lập, chạy về miền Nam ruột thịt đang cần các chú ở phía trước. Tôi thấy những người lính lái xe khi ấy thật dũng cảm, học đã sống và chiến đấu hết mình vì tổ quốc. Chính ý chí và tinh thần của họ đã góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Đã đến lúc người chiến sĩ ấy phải xuống xe, tôi chia tay chú trong niềm nuối tiếc và xúc động. Tôi rất khâm phục những người lính lái xe khi ấy, tôi sẽ tỏ lòng biết ơn họ bằng cách học tập thật tốt, để góp phần xây dựng và bảo vệ nước nhà ngày càng giàu mạnh.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 5

Nhân một chuyến đi thăm nghĩa trang liệt sĩ, tôi gặp người sĩ quan đang đứng thắp hương cho người đồng đội đã mất. Tôi và người sĩ quan đó trò chuyện rất vui vẻ và thật tình cờ tôi biết được người sĩ quan này chính là anh lính lái xe trong "Bài Thơ Về Tiểu Ðội Xe Không Kính" của Phạm Tiến Duật năm xưa.

Người sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, những con đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc lại là nơi ác liệt nhất. Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm dội xuống những con đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện của miền Bắc cho miền Nam. Trong những ngày tháng đó anh chính là người lính lái xe làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược... trên con đường TS này. Bom đạn của giặc Mỹ đã biến cho những chiếc xe của các anh không còn kính nữa. Nghe anh kể, tôi mới hiểu rõ hơn về sự gian khổ ác liệt mà những người lính lái xe phải chịu đựng ngày đêm. Nhưng không phải vì thế mà họ lùi bước, họ vẫn ung dung lái những chiếc xe không kính đó băng băng đi tới trên những chặng đường. Họ nhìn thấy đất, nhìn thấy trời, thấy cả ánh sao đêm, cả nhưng cánh chim sa, họ nhìn thẳng về phía trước, phía ấy là tương lai của đất nước được giải phóng, của nhân dân được hạnh phúc, tự do.

Người sĩ quan còn kể với tôi rằng không có kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn lái những chiếc xe đó, bụi ùa vào làm những mái tóc đen xanh trở nên trắng xóa như người già, bọn họ cũng chưa cần rửa rồi nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! tiếng cười của họ sao thật nhẹ nhõm. Gian khổ ác liệt, bom đạn của kẻ thù đâu có làm họ nản chí, sờn lòng. Những chiếc xe không kính lại tiếp tục băng băng trên những tuyến đường ra trận, gặp mưa thì phải ướt áo thôi. Mưa cứ tuôn cứ xối nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cứ ráng lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua những chặng đường ác liệt, đảm bảo an toàn cho những chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng, gió sẽ lùa vào rối áo sẽ khô mau thôi.

Khi được học "Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính" tôi cứ luôn suy nghĩ rằng những khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có nhân vật trong bài thơ mới vượt qua được nhưng đó là những suy nghĩ sai lầm của tôi bởi được gặp, được trò chuyện với người chiến sĩ lái xe năm xưa, tôi mới hiểu rõ hơn về họ. Họ vẫn vui tươi, tinh nghịch. Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm nổ sát bên tai phá hủy con đường, cái chết luôn rình rập bên họ nhưng họ vẫn là những con người lạc quan, yêu đời. Anh sĩ quan lại kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó anh luôn được gặp những người bạn, những người đồng đội của anh. Có những người còn, có những người đã hy sinh. . . Trong những giây phút gặp gỡ hiếm hoi đó, cái vắt tay qua ô cửa kính vỡ đã làm cho tình đồng đội của họ thắm thiết hơn rồi những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát, đôi đũa dùng chung, quây quần bên nhau như một đại gia đình của những người lính lái xe TS. Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa, kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi qua.

Sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt. Đúng là con đường của họ đang đi, nhiệm vụ của họ đang làm vô vùng nguy hiểm. Bom đạn Mỹ hạ xuống bất cứ lúc nào, cả ngày lẫn đêm. Anh sĩ quan còn nói cho tôi biết những chiếc xe ấy không chỉ mất kính mà còn mất cả đèn, rồi không có mui xe, thùng xe rách xước, những thiếu thốn này không ngăn cản được những chiếc xe vẫn chạy băng băng về phía trước, phía trước ấy là miền Nam ruột thịt. Nghĩ đến hình ảnh những chiếc xe băng băng về phía trước tôi lại nghĩ đến những người lính lái xe. Họ thật dũng cảm, hiên ngang, đầy lạc quan, có chút ngang tàng nhưng họ sống và chiến đấu vì Tổ Quốc, vì nhân dân. Những chuyến hàng của họ đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc ta: chiến thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tôi và anh sĩ quan chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ và nói chuyện rất vui. Tôi khâm phục những người lính lái xe bởi tình yêu nước, ý chí kiên cường của họ và tôi hiểu rằng thế hệ chúng tôi luôn phải ghi nhớ công ơn của họ, cần phải phấn đấu trở thành công dân gương mẫu, nắm vững khoa học, kĩ thuật để xây dựng một đất nước văn minh, hiện đại.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 6

Hôm ấy, nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, trường tôi tổ chức cho đi thăm quan Bảo tàng Lịch sử quân đội. Chúng tôi được chiêm ngưỡng biết bao hiện vật lịch sử: những khẩu súng trường, mảnh vỡ của bom đạn, cùng với chiếc mũ tai bèo, chiếc ba lô con cóc thân thương. . . Đang tham quan, tôi nhìn thấy một chiếc xe tải, không kính nằm thu mình ở một góc nhỏ. "Không có kính không phải vì xe không có kính. . . ", bất chợt những tứ thơ khẩu ngữ, khỏe khoắn từ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ấy vang lên trong thâm tâm tôi. "Liệu đây có phải là cái xe ấy không?", đang băn khoăn, tôi bỗng thấy một bác mặc áo bộ đội, đứng từ xa lặng lẽ quan sát xe. Từ từ bước đến bên, tôi lắp bắp hỏi: "Bác là người lái chiếc xe này đó ư?". Bác quay sang tôi, mỉm cười: "Ừ, bác là lính Trường Sơn năm xưa cháu ạ". . .

Bác dẫn tôi tới quan sát chiếc xe gần hơn; lần đầu tiên, tôi được chiêm ngưỡng tận mắt một chiếc xe tải quân sự. Quả lả một chiếc xe "trần trụi": không có kính, lại không có cả đèn, không có mui, thùng xe lại còn xước. Sinh ra và lớn lên tại thủ đô trong thời bình, từ bé tôi chỉ bắt gặp những chiếc ô tô lành lặn, nước sơn sạch bóng, nội thất khang trang; không ngờ một chiếc xe tróc sơn, hỏng hóc nặng nề như thế này vẫn có thể hiên ngang lướt đi và mang theo biết bao súng đạn, lương thực chi viện. Thật là một chuyển động kì diệu! Đang tròn mắt ngạc nhiên vì thán phục, bỗng bác chiến sĩ vỗ vai tôi, trầm giọng kể: "Chiến trường khốc liệt lắm cháu ạ! Hằng ngày máy bay Mĩ trút hàng ngàn tấn bom đạn cày xới, phá hoại Trường Sơn hòng cắt đứt chi viện của ta. Các trọng điểm lúc nào cũng mịt mù khói lửa, bom rơi.

Ngày qua ngày, xe luôn phải chịu những chấn động, rung xóc dữ dội". À đúng rồi, tại đế quốc Mĩ xâm lược, tàn phá mà chiếc xe mới trở nên tan hoang. Tôi rùng mình trước cuộc chiến thật vô cùng gian nan, khốc liệt... Khuôn mặt bác trầm ngâm, đôi mắt hướng về chiếc xe một cách xa xăm. Bỗng bác vụt giọng vui vẻ: "Nhưng mà xe không kính hóa ra cũng có cái hay. Ta ung dung ngồi trong buồng lái, thoải mái phóng tầm mắt ra xung quanh mà nhìn trời, ngắm đất, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ của rừng núi Trường Sơn. Không có kính mà, gió cứ đùa chơi trong cabin, xoa vào đắng mắt. Nhưng càng hòa mình vào thiên nhiên đất nước, bác lại càng thấy lòng mình sục sôi bầu nhiệt huyết và lạc quan; lúc đó con đường khúc khuỷu ngặt nghèo vẫn còn đầy những chông gai phía trước, dường như rộng mở và tươi sáng hơn. Nó như chạy thẳng vào con tim, khiến bác vừa hứng khởi hân hoan, lại vừa lao xao hồi hộp. Bác nhìn thấy cả những cánh chim bay về tổ ban chiều; khi đó tâm trí lại bồi hồi, xao xuyến nhớ về cha mẹ, quê hương. Màn đêm buông xuống, tuy không có đèn pha phía trước, nhưng trên bầu trời vẫn có những vì sao rọi sáng, soi đường dẫn lối cho xe bác qua. Hướng mắt tới những ngôi sao xa xôi, bác nao lòng nghĩ đến miền Nam ruột thịt đang mong đợi. Ôi, cháu ơi, mọi thứ xung quanh cứ như sa, như ùa vào buồng lái". Tôi háo hức nghe bác kể chuyện. Những người chiến sĩ lái xe quả thật kiên cường, dũng cảm.

Dù cho có ở trong chiến tranh khốc liệt, họ vẫn tràn đầy khí thế ung dung, lạc quan, thư thái thả mình vào vẻ đẹp huyền diệu của núi rừng, để cho tâm hồn dạt dào, trào dâng bao lãng mạn. . . Chợt nhớ ra những ý thơ "Không có.... ừ thì....", tôi hỏi: "Thế không có kính, bác đối chọi với thiên nhiên thời tiết ra sao?". Bác liền cười: "Cứ mặc kệ nó thôi, cháu ạ. Không có kính, ừ thì bụi thật đấy. Bụi bẩn bắn từ đường lên sạm hết cả mặt, đến mái tóc đen cũng trở nên trắng xóa như cụ già. Nhưng cứ để nguyên; phì phèo châm điếu thuốc, thấy mặt cứ ngờ ngộ, là lạ, bác bỗng bật cười. Khuôn mặt lấm cát bụi hóa ra lại vui! Thế rồi cả những khi mưa to, đường rừng trở nên trơn trượt, lầy lội khiến bác dán mắt vào từng đoạn đường, lái xe cẩn thận hơn; nhưng cùng lúc đó, mưa tuôn mưa xối qua chiếc cửa kính vỡ kia làm bác ướt hết cả áo quần, mặt mũi. Trên đỉnh Trường Sơn này, có lúc mưa lâm râm, nhưng nhiều khi lại trút xuống ào ào, thối đất thối cát.

Ô hay, mặt bác đã được rửa sạch trơn, nhưng áo quần lại ướt như chuột lột. Nhưng còn tâm trí đâu mà để ý đến những cái đó nữa. Mắt còn mải mê với những cung đường gập ghềnh khúc khuỷu, con tim đập rộn ràng thúc giục vì miền Nam, bác tự nhiên quên đi gian khổ. Mà lái trăm cây số nữa, kiểu gì mưa chả phải ngừng; nắng lên, gió lùa vào buồng lái, áo khô mau thôi!". Nụ cười rạng rỡ của bác làm cho tôi khâm phục.

Nụ cười ấy đã hiên ngang trong phong ba bão táp; kiên cường, dũng cảm bất chấp thời tiết khắc nghiệt, những cung đường thử thách gian lao. Vì lí tưởng sống cao đẹp, vì tiếng gọi của Tổ quốc thiêng liêng, các bác sẵn sàng chiến đấu, quên đi tất cả. Thế rồi tôi lại hỏi:"Lái xe giữa rừng một mình thế này, bác có cảm thấy cô đơn không?". Bác lại bật cười: "Làm sao mà cô đơn được hả cháu? Bên bác còn có trời đất, núi rừng Trường Sơn nữa cơ mà. Với lại có phải một mình bác lái xe đâu, trên tuyến đường này vẫn còn biết bao nhiêu chiếc xe khác ngày đêm chuyên chở vũ khí, lương thực.

Anh em đồng chí gặp nhau suốt dọc đường đi tới, trao cho nhau cái bắt tay. Chỉ một cái bắt tay chớp nhoáng qua ô cửa kính vỡ kia thôi, vậy mà khiến bác ấm áp cả con người, như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Xe lại tiếp tục chạy, bầu trời càng tươi xanh. Và rồi khi nghỉ giữa chặng xe, bác còn được quây quần bên bạn bè, đồng đội. Bên bếp Hoàng Cầm, cùng chung bát đũa, mọi người thân tình, cởi mở, sẻ chia những vui buồn cho nhau.

Nhiều khi tất cả cùng ca hát, mỉm cười rồi vỗ tay, truyền cho nhau nhiệt tình cách mạng và yêu thương, xua tan đi khó nhọc. Tình đồng chí, đồng đội thật đẹp quá, cháu ạ!". Đúng là đẹp thật! Quả đúng là "Chỉ cần trong xe có một trái tim"! Những người chiến sĩ cùng chung niềm tin, lí tưởng, sát cánh bên nhau. Họ truyền sức mạnh và hơi ấm cho nhau, để cùng nhau chiến đấu vì miền Nam ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe thật sinh động.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 7

Buổi sớm đầu đông, tôi tung tăng tới trường, trong tiếng chim ca ríu rít, dưới bầu trời xanh thăm thẳm…Hôm nay, tôi sẽ được học bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, một bài thơ tôi rất thích từ hồi Tiểu học. Vừa lẩm nhẩm đọc lại bài thơ, tôi vừa mơ màng tưởng tượng như đang đi trên một con đường rừng gập ghềnh, hiểm trở. Tất cả bỗng chợt mờ nhòa trước mắt tôi bởi một làn khói bụi mờ ảo, rồi lại như dần hiện ra rõ nét từng cảnh vật…

Một đoàn xe tải băng qua. Tôi ngơ ngác nhìn theo:

- Sao lại có xe ở con đường rừng này nhỉ?

Đang mông lung suy nghĩ thì lại một đoàn xe tải nữa rầm rầm tiến tới, đất dưới chân tôi rung chuyển. Tôi lùi vào bên đường cho xe qua. Một, hai, ba…Bỗng chiếc xe thứ sáu, cũng là chiếc xe cuối cùng dừng lại. Một chú bộ đội mặc quần áo xanh, tươi cười xuống xe:

- Cháu bé, sao lại ở đây một mình thế, lạc mẹ hả? Để chú đi tìm giúp nha?

- Không, cháu đâu có lạc mẹ, cháu đến thăm các chú lính lái xe Trường Sơn đấy chứ, chú có biết họ không?

Chú không trả lời chỉ bảo tôi lên xe đi theo chú. Ngồi trên xe thích thật. Tôi nhìn chăm chăm vào chú lính ấy, có điều gì ở chú làm cho tôi cảm thấy thân quen quá. Chú quay ra nhìn tôi, nụ cười ấm áp. Tôi giật mình lảng đi, rồi bạo dạn hỏi:

- Chú là lính lái xe Trường Sơn phải không ạ?

Chú vẫn chẳng nói gì cả, chỉ cười và chăm chú nhìn con đường phía trước. Gió ở hai bên tạt vào mát lạnh.

- Xe gì mà không có kính thế này? Tôi ngạc nhiên.

Một chú chim ở đâu liệng qua, tôi vội với tay về phía nó nhưng không kịp. Hay thật! Tôi bắt đầu thò hai tay ra ngoài, thò luôn cả đầu, một cảm giác sung sướng như bay. Nào ngờ lại bị chú mắng:

- Nguy hiểm đó, cháu nghịch thật đấy!

Tôi phụng phịu chui vào.

- Không lạnh hả cô bé? Thực ra xe các chú vốn có kính, nhưng bị bom giật, bom rung làm vỡ hết rồi.

- Thích thế, cháu thích được ngồi trên những chuyến xe thế này.

Rồi hai chú cháu lại chìm vào những giây phút yên lặng.

Chiếc xe bỗng dừng lại ở chỗ có ba bốn túp lều. Tôi xuống xe. Ở đây xung quanh là cây rừng, mọi thứ đều đơn sơ và hoang vắng quá. Có mấy con gà cục ta cục tác chạy khắp sân, một vại nước nhỏ và một cái gáo tí hon, dây phơi quần áo cũng nhuốm đầy một màu xanh. Cuộc sống ở đây thật yên bình, khiến cho người ta đâu còn cái cảm giác của chiến tranh nữa.

Một làn nắng nhẹ nhàng làm bừng lên cả không gian yên ắng nơi đây. Có một chú xắn quần ống thấp ống cao từ đâu chạy đến xé toang cái không khí im lặng ấy.

- Này nhóc, chơi đâu mà lạc đến đây thế hả? Bộ không sợ thằng Mĩ nó bắn sao?

- Có các chú rồi, lo gì nữa ạ?

- Đáo để nhỉ, vào đây nấu cơm cho các chú, bé con.

Tôi lon ton chạy theo, cùng với ống quần thấp cao bê cái nồi cơm mà với tôi là “to tướng”. Bỗng một chú có vẻ nghiêm nghị hơn trông thấy tôi, chú hỏi:

- Sao cháu lại ở đây?

Biết ngay đây là chỉ huy trưởng, tôi bèn lân la đến.

- Cháu muốn ở đây chơi được không chú? Chú kể chuyện cho cháu nghe đi, cháu thích lắm.

Không biết chú có đồng ý không mà đã vòi rồi, tôi thấy ngường ngượng. Nhưng chợt chú nhìn tôi và bảo:

- Tí tuổi đầu mà cũng thích chuyện chiến đấu. Được, chú tình nguyện.

Chú chỉ huy dắt tay tôi đi và không quên dặn chú lính đang bưng rá gạo:

- Cậu đi nấu cơm nhanh lên, anh em đói rồi đấy.

Rồi tôi cùng chú chỉ huy trưởng đến một gốc cây cao su to, có bàn ghế đầy đủ. Chiếc ghế gỗ kẽo kẹt nghe thật vui tai.

- Chú ơi, ở đây toàn những chú hiền nhỉ, chắc cuộc sống vui lắm phải không chú?

- Cháu không biết chứ cuộc sống ở đây vất vả lắm. Hàng ngày các chú phải vận chuyển lương thực, cả thuốc thang và vũ khí ra tiền tuyến. Nhưng lúc nào gặp nhau cũng có tiếng cười, lúc nào cũng chuyện trò tếu táo. Các chú phải làm cả công việc của các bà nội trợ, rửa bát, nấu cơm…Tối đến lại quây quần bên đống lửa diễn kịch, kể chuyện cười…Nhiều hôm bọn chú phải đi cả đêm để kịp vận chuyển vũ khí, lương thực cho quân ta.

- Thế thì mệt lắm chủ nhỉ?

Chú bỗng trầm ngâm, đôi mắt xa xăm. Một làn gió nhẹ xào xạc làm một chiếc lá rơi trên tóc chú.

- Đúng là rất gian nan. Những ngày nắng ráo thì bụi tung mù mịt, những ngày mưa thì đường rừng trơn bùn lầy, mưa cứ xối thẳng vào mặt. Bọn chú có lúc cũng thấy sợ bom đạn. Nhưng đó chỉ là cái cảm giác của thời gian đầu thôi. Sau thì chỉ có thẳng tiến. Vui nhất là lúc gặp mấy cô thanh niên mở đường, người con gái nào cũng dịu dàng và anh dũng. Con gái mà còn thế huống chi các chú – những chàng trai can trường càng phải cứ thẳng mà tiến chứ.

- Hay thật đấy! Ước gì cháu được lớn bằng các chú nhỉ! À, chú này, kỉ niệm nào làm chú nhớ nhất, tiết lộ cho cháu với.

Chú mỉm cười, lắc đầu:

- Nhóc này, nhiều chuyện quá. Nhưng dù sao chú cũng chưa tâm sự với ai, nghe xong cấm phát biểu cảm nghĩ đó nha.

- Đồng ý! Tôi giơ cả hai tay lên rồi cười hì hì…

Tiếng lá rừng xôn xao, những giọt nắng nhỏ nghịch ngợm, luồn qua kẽ lá, chui xuống chỗ chú cháu tôi ngồi mà nhảy nhót. Tất cả đã sẵn sàng lắng nghe giọng kể ấm áp của người chiến sĩ.

- Đó là bữa cơm của ngày đầu tiên chú đến tiểu đội. Chú bị gọi là “cô dâu mới về nhà chồng” đấy, ngượng và xấu hổ lắm. Trời, chú không thể tưởng tượng được, một mâm cơm trải dàn những bát và đũa, chỉ có ba món: Rau rừng luộc, canh măng rừng và ít thịt nạc khô. Bỗng một anh cầm đũa gõ keng keng vào bát, tất cả cùng hòa nhịp hát rộn vang cả khu rừng. Vui ghê! Tất cả mọi khoảng cách bỗng đều tan biến đi hết. Bữa ăn tuy đạm bạc nhưng làm chú xúc động quá. Họ gắp cho nhau từng miếng thịt. Bữa ăn đầu tiên ấy tuyệt thật, một bữa ăn bình thường thôi nhưng dù muốn quên chú cũng chẳng thể quên được.

Tôi thấy hình như đôi mắt chú rưng rưng. Cả tôi nữa, tôi vừa cảm nhận được một thứ tình cảm “gia đình” rất đặc biệt của những người lính…

- Cô bé này sao bỗng thộn người ra thế?

- Chú ơi, cháu đói quá!

Vừa lúc ấy một chú khắp khu lều gọi mọi người.

- Anh em ơi, đi ăn cơm nào!

Vậy là tôi lại được gặp lại bữa ăn đầu tiên ở tiểu đội của chỉ huy trưởng rồi!

Ăn xong, các chú lại quây quần bên đống lửa, tiếng đàn ghi ta vang lên hòa cùng tiếng hát của những người lính. “Xe ta bon trên những dặm đường, giữa làng quê ta băng qua bao suối đèo, đồi nương mà xe ta băng ra chiến trường…”…

Khúc quân hành ấy cứ ngân vang, ngân vang, vọng khắp khu rừng…Tôi đã trở lại con đường đến trường từ bao giờ mà khúc hát vẫn âm vang khiến lòng tôi xao xuyến mãi.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 8

Nhân ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam, trường em có tổ chức cho chúng em gặp gỡ và giao lưu với những cựu chiến binh lái xe Trường Sơn năm xưa. Ở đây, chúng em được các bác kể lại những câu lái xe ở chiến trường vô cùng thú vị.

Ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam năm nay tỉnh em tổ chức một buổi mít tinh vô cùng long trọng để tri ân những người chiến sĩ có công với cách mạng, với đất nước. Em vinh dự là một trong số những bạn học sinh trong tỉnh được nhà trường cử đi đến dự buổi lễ. Lần đầu tiên được đến một nơi trịnh trọng và ý nghĩa như thế em cảm thấy vô cùng tự hào nhưng cũng có chút lo lắng, hồi hộp.

Hội trường tổ chức buổi lễ rất rộng rãi và được trang hòa lộng lẫy, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, những hàng ghế được kê thẳng tắp san sát nhau. Các bác cựu chiến binh có mặt từ rất sớm và mặc bộ quân phục màu xanh ngay ngắn, dáng đi nghiêm trang, trịnh trọng vô cùng rắn rỏi. Trước sự nghiêm trang của họ, chúng em cảm thấy vô cùng nể phục.

Các bác cựu chiến binh năm xưa là những người lính lái xe dọc tuyến đường Trường Sơn đi cứu nước. Gặp lại nhau sau bao ngày xa cách, họ tay bắt mặt mừng vô cùng hồ hởi. Họ ngồi với nhau cùng ôn lại kỉ niệm xưa khi còn là những thanh niên trai tráng và hỏi han nhau về cuộc sống hiện tại. Sau đó đến chuyên mục ôn lại kỉ niệm xưa, các bác cho chúng em nghe nhưng câu chuyện cùng nhau kháng chiến trong môi trường gian khổ, thiếu với ánh mắt hào hùng, tràn đầy tâm huyết, đó là những năm tháng các bác mới chỉ ngoài hai mươi tuổi là những thanh niên trai tráng hồn nhiên yêu đời, đó cũng là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất đối với các bác. Núi rừng Trường Sơn tuy gian nan hiểm trở nhưng không ngăn nổi dấu chân của những con người tràn đầy nhựa sống. Chính tình yêu, tinh thần và nghị lực hơn người đó đã làm nên chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta sau này. Cuộc gặp gỡ giúp chúng em hiểu hơn về những khó khăn, gian khổ mà họ phải gánh chịu nhưng cũng thêm khâm phục ý chí của họ.

Bên cạnh việc ôn lại những kỉ niệm cùng nhau kháng chiến, các bác còn truyền cho chúng em ngọn lửa của tình yêu tổ quốc, của tinh thần ý chí quyết tâm đánh giặc. Sau buổi gặp gỡ, em không chỉ hiểu thêm, tự hào hơn về thế hệ ông cha đi trước mà còn là động lực để em phấn đấu hơn trong cuộc sống xứng đáng với những điều tốt đẹp em đang được hưởng.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 9

Chiến tranh đã qua từ rất lâu rồi, và có lẽ những người trẻ tuổi như tôi không bao giờ hiểu được cái khó khăn, gian khổ của công việc cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước. Nhưng qua một lần nói chuyện, chỉ một lần gặp gỡ tình cờ đã cho tôi hiểu ra rất nhiều điều và thực sự cảm nhận được cuộc sống những ngày đạn bom gian khổ ấy,…

Những bánh xe đang lăn đều, lăn đều và chậm rãi khỏi nhà ga, chuyến tàu Bắc Nam bắt đầu cuộc hành trình của nó… Con tàu lao nhanh dần, lòng tôi bỗng thấy buồn lạ, cũng phải thôi, đây là lần đầu tiên tôi đi xa nhà như vậy, hơn nữa lại đi một mình. Trên một chuyến tàu toàn người xa lạ, con bé mười lăm tuổi như tôi bỗng thấy chạnh lòng, sống mũi cay cay, hai mắt đỏ dần, trong lòng rơn lên một nỗi nhớ nhà, nhớ ba mẹ da diết. Người đàn ông ngồi bên cạnh, tôi mạn phép tôi gọi người ấy là “bác”, dường như đã cảm nhận được tôi đang nghĩ gì. Bác trạc ngoài sáu mươi, mái đầu bạc trắng, làn da đồi mồi, hơi rám nắng, dáng người to khoẻ. Nhìn những chiếc huân chương đeo trên ngực bác, tôi đoán, bác là một cựu chiến binh. Bác quay sang tôi bắt chuyện:

– Buồn hả cháu? Nhớ nhà phải không? Đợt mới nhập ngũ, bác đã từng có cảm giác như cháu bây giờ. Nhưng mau qua thôi, nó rèn luyện cho cháu tính tự lập, xa bố mà sống vẫn tốt.

Tôi nhìn bác cười rồi khe khẽ hỏi:

– Bác từng đi lính ạ?

Bác nhìn tôi rồi cười phá lên:

– Đúng rồi cháu ạ! Bác từng là một người lính đấy. Người lính lái những chiếc xe rất đặc biệt, những chiếc xe không kính cháu à. Ngày ấy Mĩ nó đánh ta ác liệt lắm, bác xung phong lên đường nhập ngũ. sẵn trong người tính thích mạo hiểm, lại biết lái xe, binh đoàn phân công bác vào tiểu đội 71A, lái những chiếc xe tải qua con đường Trường Sơn, chi viện súng, đạn, lương thực, dược phẩm cho đồng đội ở chiến trường miền Nam. Ngày ấy đường đi vất vả lắm cháu ạ, đâu có được đổ bê tông phẳng lì như bây giờ, lại còn đi đường rừng, tối om, không cẩn thận là lao xuống vực như chơi. Xe lại không có kính, bộ phận, tua vít nên lỏng lẻo, tạo ra tiếng động rất ghê tai. Thế mà đi nhiều, nghe nhiều rồi cũng quen cháu ạ! Có những đêm lái xe qua rừng, chim thú các loại cứ bay ào ạt vào khoang lái, nguy hiểm lắm, nhưng cũng thấy thú vị. Hay rồi gió, bụi, mưa, lá cứ bay vào tới tấp, cay xè, trắng xoá mặt mày là chuyện bình thường…

Bác dừng lại uống ngụm nước… Ngay từ bé, đứa con gái như tôi đã rất thích những trò đánh trận, múa kiếm, bắn súng đủ các kiểu,… nhưng chưa hề được nghe tới bom đạn, hay những vất vả, cực nhọc mà mỗi người lính Trường Sơn phải trải qua, dù là trực tiếp chiến đấu hay là những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm như bác. Tôi háo hức hỏi:

– Vậy đi chiến trường như thế bác có thấy nhớ nhà nhiều lắm không ạ?

– Có chứ cháu, nhớ nhiều lắm, nhiều khi nhớ tới mất ăn mất ngủ. Lo lắng không biết mẹ mình giờ này làm gì, bom thả có mau chân mà chạy xuống hầm hay không? – Ánh mắt buồn của bác như rạo rực lên. – Nhưng mà cũng được các bác cùng đơn vị an ủi và giúp đỡ nhiều lắm cháu ạ. Mấy anh em tuy mới gặp nhau nhưng quý nhau và thương nhau lắm, coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà, có cái gì ngon hay mẩu thuốc lá là mấy anh em đều chia nhau hết, cực nhọc nhưng vui. Rồi những hôm lái xe, gặp anh em đồng đội trên đường đi, cứ thế mà mấy anh em tíu tít đứng bắt tay, ôm nhau rất tình cảm. Hình như có nhiều điểm chung là lòng yêu đất nước, căm thù bọn giặc và những đồng cảm về nỗi nhớ nhà, tâm sự và ước mơ, hoài vọng của tuổi trẻ nên các bác hiểu nhau và quý nhau lắm. Nhờ thế mà thêm tự tin, dũng cảm hơn trên con đường chiến đấu, nhất định phải thắng lợi để về với gia đình, anh em sẽ gặp lại nhau để cùng thực hiện những dự định trong tương lai…

Câu chuyện của bác còn dài, còn dài lắm nhưng mới chừng kia thôi đã đủ cho tôi cảm nhận về những người chiến sĩ, về những gì họ đã trải qua và về niềm tin, lòng lạc quan yêu đời của họ. Bánh tàu vẫn lăn, nhưng nó không gợi cho tôi cảm giác buồn nữa, nó chỉ khẽ nhói lên trong người tôi một niềm vui khó tả, có lẽ là niềm vui được sống trong một thế giới hoà bình, niềm hạnh phúc về những gì mình đang có và tận hưởng…

Được gặp gỡ và trò chuyện với những người lái xe Trường Sơn năm xưa là may mắn của riêng tôi. Nó giúp tôi có thêm nghị lực và sức mạnh để hoàn thành những ước mơ của mình. Nó như một luồng sinh khí lan toả khắp người tôi, khiến tôi dũng cảm và có niềm tin hơn vào cuộc sống này. Và tôi hiểu ra một điều rằng: là người con của mảnh đất Việt phải chảy trong người dòng máu Việt. Bảo vệ, phát triển và xây dựng đất nước là nhiệm vụ tất yếu của tôi, cũng như của hàng vạn con người trẻ tuổi và cùng trang lứa khác…

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 10

Tôi vừa đưa chiếc xe đạp vào khoảng sân hẹp thì đã nghe vọng ra tiếng cười giòn giã của bố tôi và một vị khách. Đó chắc chắn là một vị khách quý bởi vì ít khi có sự ồn ã, sôi động như thế ở người cha hiền hậu nhưng lúc nào cũng lặng lẽ của tôi.

Tôi bước vội vào nhà. Bố tôi cùng người khách hướng ánh nhìn rạng rỡ, trìu mến đón tôi:

_ Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học hồi trung học với bố, lại cùng bố nhập ngũ. Bác là chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa đấy con ạ!

Bác Trực trạc tuổi bố tôi. Khuôn mặt bác cương nghị nhưng lại rất đôn hậu. Đôi mắt tuy đã hằn nhiều vết chân chim nhưng vẫn ánh lên những tia vui vẻ và trìu mến. Tôi có đang nằm mơ không nhỉ? Tôi vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Những lời thơ, những lời cô giảng và hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm, kiên cường cứ đọng mãi trong tâm trí tôi. Giờ đây, tôi đang được đứng trước một người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đích thực. Thật là một may mắn không ngờ. Tôi cuống quýt:

_ Bố ơi! Bác ơi! Con có thể được ngồi với bố và bác một lát để biết thêm về những ngày tháng chiến đấu năm xưa được không ạ?

Bác cười và đáp:

_ Sao lại không? Đó là khoảng thời gian đẹp nhất của bố cháu và bác.

_ Thưa bác, bác chính là người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, người lính mà cháu đã được học trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật, phải không bác?

_ Ồ, bài thơ ấy nổi tiếng lắm cháu à. Ngày đó, có lẽ lính lái xe Trường Sơn ít ai là không biết bài thơ ấy. Nó nói hộ phần nào khát vọng chiến đấu, những gian khổ, lòng dũng cảm và sự lạc quan của những người lính như bác.

_ Chính bác cũng đã từng lái những chiếc xe không kính ấy phải không ạ?

_ Không phải “đã từng” đâu cháu ạ. Mà là bác luôn lái những chiếc xe bị xước, bị va đập, bị bom đạn làm cho rơi vỡ, méo mó những bộ phận bên ngoài như thế. Chiến tranh mà! Để bác kể rõ hơn cho cháu hiểu nhé. Ngày đó, bác lái xe tải, cùng đồng đội chuyên chở lương thực, thuốc men, khí tài,… vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng trời, gian khổ lắm cháu ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng muốn san phẳng tất cả, cắt đứt con đường huyết mạch nối liền Bắc Nam ấy. Tiểu đội xe của bác ban đầu được trang bị toàn xe mới để phục vụ mặt trận. Lúc đó, xe có kính như muôn vàn chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn vỡ, mất dần hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt nhiều cũng chằng chịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên vẹn cháu à.

Tôi vẫn còn tò mò, tiếp tục hỏi bố:

_ Lái xe không kính, không mui, không đèn như thế chắc nguy hiểm lắm bác nhỉ?

Bác sôi nổi tiếp lời:

_ Nguy hiểm lắm, cái sống cái chết lúc nào cũng trong gang tấc. Lái xe không kính thì mối nguy hiểm gần nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt, vào quần áo. Bụi dày đặc đến mức mắt cay xè, không thể mở nổi. Lúc ấy, râu, tóc, quần áo và cả xe rực lên một màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất ngờ. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt sũng nước mưa. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp trăm ngàn lần. Thế nhưng, những người lính lái xe như bác không bao giờ dừng lại, luôn phải tranh thủ tránh giờ cao điểm cháu ạ. Cũng vì xe không kính nên mưa gió vứt vào cabin đủ thứ, nào là lá rừng, nào là cành cây gãy, … Bác đã bao lần bị cành cây cứa vào mặt, vào tay cầm vô lăng, đau rát vô cùng. Gian khổ là thế đấy cháu! Mỗi chuyến chở hàng về tới đích thật sự là một kỳ tích. Vậy mà ký tích vẫn luôn xuất hiện đấy!

Bác mỉm cười, khuôn mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và tự hào. Lời bác kể như chất chứa bao nhiệt huyết, bao sôi nổi của một thời tuổi trẻ nơi chiến trường. Bác dường như đang được sống lại những phút giây lịch sử ấy. Không hiểu sao ngay lúc này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đó chính là một thực tế ở chiến trường ngày ấy. Thế mà, những người lính cụ Hồ vẫn tràn đầy lạc quan, yêu đời, và tin tưởng vào một ngày mai chiến thắng.

Tôi chợt thấy bác Trực trầm ngâm, ánh mắt xa xôi như đang lạc trong dòng hồi tưởng. Còn bố tôi thì ngồi lặng lẽ, khuôn mặt đầy vẻ xúc động. Bác Trực chợt nói:

_ Xe không kính thế mà lại hay cháu ạ. Gặp bạn cũ, gặp đồng đội, gặp đồng hương đều tay bắt mặt mừng qua ô kính vỡ. Giữa đại ngàn mênh mông, bác chợt thấy lòng mình ấm lại vì được chiến đấu bên cạnh những đồng chí yêu thương.

Giọng bác chợt rung lên, đầy xúc động:

_ Cháu không thể hiểu tình đồng chí thiêng liêng, quý giá thế nào với người lính các bác đâu. Dừng xe, ghé vào một bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là thấy thân thuộc như anh em một nhà. Dù chốc lát nữa thôi, mỗi người sẽ đi mỗi hướng, có khi chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa chiến trường ác liệt. Bác và ba cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng bao nhiêu đồng đội của bác đã ngã xuống. Có một đồng đội của bác đã hy sinh ngay sau vô lăng vì quyết tâm lái xe vượt qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Ngày ấy, khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc ghi trong tim những người lính lái xe. Dù có hy sinh, các bác vẫn quyết tâm bảo vệ xe và hàng.

Bác chợt im lặng. Không khí cả căn phòng bỗng chốc trở nên thật trang nghiêm.

_ Cháu gái của bác, hai câu cuối của bài thơ có phải là:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim. ”

Chiến tranh đã qua lâu rồi, nhưng cho đến tận hôm nay, bác và bố cháu không phút nào quên được mình đã từng là người lính. Bác rất tự hào vì mình đã là người lính lái xe Trường Sơn năm xưa, đã tham gia chiến đấu góp phần giành độc lập tự do cho quê hương đất nước.

Trong tôi bỗng trào dâng một cảm xúc thật kỳ lạ, vừa khâm phục, vừa tự hào. Ngày hôm nay tôi đã hiểu thêm rất nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết đến cuộc sống êm đềm trong vòng tay ấm áp, chở che của gia đình, thầy cô trong một đất nước hòa bình. Đó là thành quả của bao thế hệ cha anh đã vất vả, hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác tôi và những người tôi chưa từng gặp mặt. Tôi phải thật trân trọng cuộc sống hòa bình này và cố gắng trau dồi, hoàn thiện để góp phần xây dựng đất nước thêm tươi đẹp trong thời đại mới. Cảm ơn bác, người lính lái xe năm xưa của Trường Sơn oanh liệt, đã giúp cháu lớn thêm lên nhiều lắm!

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 11

Chiến tranh đã qua đi được gần 50 năm nhưng những gì đã trải qua trong cuộc chiến ấy chưa bao giờ phai nhạt trong kí ức của người lính. Chúng tôi đã may mắn được gặp gỡ và trò chuyện với chú Kiên - một trong những người lính lái xe đã xuất hiện trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng là nhân chứng cho cuộc chiến ác liệt, máu lửa của ta suốt thời kì chống Mĩ trong ngày lễ kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 22/12 năm ấy là một ngày nắng đẹp - thứ nắng cuối đông, dù không sánh đặc nhưng cũng đủ ấm áp. Trường muốn chúng tôi hiểu hơn về lịch sử dân tộc và quá khứ hào hùng của cha ông nên đã mời chú Kiên - một người lính lái xe còn may mắn sống sót và cũng trực tiếp tham gia chiến trận, đến trường giao lưu cùng chúng tôi. Chú Kiên đã gần 60 tuổi, dáng người dong dỏng cao và dù tuổi cũng đã cao nhưng trông chú vẫn còn rất nhanh nhẹn. Chú mặc bộ quần áo quân phục màu xanh, trên vai là những ngôi sao tượng trưng cho quân hàm của chú - một vị thượng tá, còn trước ngực là những huân chương mà chú đã dành được trong suốt cả cuộc đời. Khuôn mặt chú đã hằn những dấu vết của năm tháng. Rời khỏi chiến trường khói lửa, những người lính trở về với cuộc sống đời thường, họ vẫn luôn là những con người yêu đời, lạc quan. Chỉ có điều dường như họ có những phần kí ức sẽ không bao giờ có thể lấy lại được bởi nó đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường cùng những người đồng đội.

Chú Kiên bước lên sân khấu, nhìn chúng tôi bằng con mắt hiền từ và một nụ cười hiền lành luôn thường trực trên môi:

- Chào các cháu, chú xin tự giới thiệu, chú là Kiên, là một trong những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ. Chắc các cháu sẽ nghĩ ngay tới Phạm Tiến Duật. Đúng rồi đấy, chú và Phạm Tiến Duật là bạn, bọn chú cùng chung đơn vị.

Cả hội trường ồ lên rồi xôn xao. Bởi chúng tôi, cứ nghĩ những bài học trong sách giáo khoa là những thứ xa vời lắm rồi, cũng sẽ không có thực. Nhưng ngày hôm nay, đứng trước mặt chúng tôi lại là một nhân chứng sống, đã xuất hiện trong một tác phẩm ở sách giáo khoa. Đó quả thực là một điều khó tin, với chúng tôi - những đứa học trò chỉ mải miết với những con chữ. Chờ cả hội trường yên lặng lại sau kích động ban đầu, chú Kiên mới điềm đạm nói tiếp:

- Chú được mời đến đây để kể cho các cháu nghe về những năm tháng khói lửa trong cuộc kháng chiến chống Mĩ mà chú và những người đồng đội của chú đã trải qua. Có thể nó hơi dài dòng, hoặc nhàm chán với mấy đứa nhưng chú hi vọng là các cháu có thể cảm nhận được một phần nào đó tính chất của cuộc chiến này và quan trọng hơn là chú muốn các cháu hãy yêu đất nước này như các chú đã yêu nó nhé!

- Vâng ạ! - Chúng tôi đáp lại chú

Chú bắt đầu câu chuyện của mình bằng một giọng trầm trầm nhưng vang vọng khắp không gian:

- Chú nhập ngũ năm 1958 khi chính quyền Ngô Đình Diệm - tổng thống của Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, thực chất chúng là tay sai của đế quốc Mĩ dựng lên để giết hại đồng bào của ta ở miền Nam. Chúng thi hành những chính sách độc tài, giết chóc, lê máy chém đi khắp miền Nam để diệt trừ những người con yêu nước. Năm tháng ấy là thời kì đen tối trong lịch sử dân tộc. Bọn chú từ miền Bắc phải tập kết gấp vào miền Nam để chi viện và chuẩn bị cho những chiến dịch lớn và cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì.

Chú ngừng lại một chút rồi lại tiếp tục kể:

- Đó là những năm tháng khó khăn nhưng cũng chưa là gì so với thời kì 1969 - 1970 các cháu ạ. Chú được chuyển về Đoàn 559 Trường Sơn và nhận lệnh lên đường vào binh trạm 35, Tây Trường Sơn, cũng là khu vực hạ Lào, ở ngã ba Đông Dương. Nhiệm vụ của chú và những người đồng đội là vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng trên tuyến đường Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Trong trận chiến ấy, có hai con đường huyết mạch là tuyến đường Trường Sơn và đường mòn Hồ Chí Minh để hậu phương miền Bắc có thể tiếp tế cho miền Nam. Đế quốc Mĩ nắm được vai trò huyết mạch của tuyến đường Trường Sơn nên chúng đã ngày đêm ném bom rải thảm, bắn phá ác liệt trên khắp các cung đường. Bầu trời Trường Sơn không lúc nào ngớt tiếng máy bay địch quần thảo, gầm rú dội bom nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc với miền Nam.

Cả hội trường im phăng phắc. Bởi chúng tôi cũng đã biết được sự ác liệt của cuộc chiến qua những trang sử, qua cả những câu chuyện của cô trong giờ giảng văn nhưng khi nghe chú Kiên kể lại, chúng tôi vẫn cảm thấy sống lưng mình lành lạnh. Cái không khí của trận chiến, cái dữ dội của chiến trường như hiện ra trước mắt chúng tôi vậy. Chú Kiên đưa mắt nhìn tất cả chúng tôi như để chắc rằng chúng tôi vẫn đang lắng nghe câu chuyện của chú, rồi chú lại tiếp tục:

- Các cháu đã đến Trường Sơn bao giờ chưa? Nếu đã từng đến rồi thì các cháu sẽ nhận ra thời tiết, khí hậu ở Trường Sơn vô cùng khắc nghiệt. Bởi nó là ranh giới tự nhiên của ta với nước bạn Lào nên mang đặc trưng của thiên nhiên ở cả hai đất nước. Mùa mưa thì đường trơn trượt, mùa khô thì bụi mù mịt, nhiều tuyến đường độc đạo đi qua cách núi. Để tránh sự phát hiện của địch, lái xe bọn chú phải đi vào ban đêm, có những đêm đi mà không bật đèn pha vì nếu bật địch sẽ phát hiện ra ngay. Nếu đi vào ban ngày, bọn chú phải ngụy trang bằng cành cây và đi vào đường kín, đường rừng rất nguy hiểm. Các cháu biết không, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của đại ngàn, đường sá toàn đèo cao, dốc thẳm, trên đầu thì máy bay địch lòng vòng, dưới đất thì bom đạn giày xéo, quần thảo ngày đêm, lính lái xe bọn chú chỉ cần sơ sẩy một chút là có thể gặp nguy hiểm. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Như cô Lê Minh Khuê cô ấy nói đấy, thần chết không phải là một tay thích đùa. Hắn ta lúc nào cũng lởn vởn ngay bên cạnh bọn chú thôi.

Chú nhấp một ngụm nước rồi lại kể:

- Cả cuộc đời chú đã đối mặt với cái chết không biết bao nhiêu lần, cũng chứng kiến không biết bao nhiêu người đồng đội của mình đã ngã xuống, trên chính tuyến đường Trường Sơn ấy - chú ngừng lại vì xúc động, chúng tôi còn thấy đôi mắt chú đỏ hoe. Có lẽ chú đang nghĩ tới những người bạn của mình - Chú có một người bạn, là một người vô cùng dũng cảm, hài hước. Chú ấy là liệt sĩ, hi sinh khi chỉ mới 26 tuổi. Trước hôm hi sinh, chú ấy còn khoe với chú ngày mai sẽ được nghỉ phép về nhà thăm vợ và đứa con nhỏ vừa mới ra đời. Khuôn mặt và nụ cười hạnh phúc của người bạn ấy có lẽ chú sẽ không bao giờ quên. Bởi ngày hôm sau, khi đang dẫn đường cho những chuyến xe, chú ấy bị trúng bom, mất ngay tại chỗ.

Không gian của căn phòng như trùng hẳn xuống qua câu chuyện và sự chia sẻ của chú. Vẫn biết chiến tranh là đau thương, là mất mát nhưng khi nghe chính những người trong cuộc kể lại, chúng tôi vẫn thấy những mất mát ấy thật lớn lao, đau đớn hơn gấp bội phần. Những người đồng đội của chú có người lành lặn trở về, có người trở lại cuộc sống nhưng không lành lặn, mất chân, mất tay, liệt nửa người cũng có; còn có vô số người không bao giờ trở về được nữa. Họ đã nằm lại mãi ở chiến trường, nơi những người đồng đội của mình cũng đã ở đó. Hội trường đã có những tiếng sụt sùi, đã có những bạn lau nước mắt, đã có những con mắt đỏ hoe. Chúng tôi may mắn sinh ra ở thời hòa bình nên không phải chứng kiến cảnh chia lìa, tan tóc và không phải chịu đựng nỗi đau mất mát, không được gặp lại người mình yêu thương nữa. Nhưng thời đại của cha ông ta, của chú Kiên thì họ đã phải trải qua những điều khủng khiếp ấy. Lần đầu tiên chúng tôi cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân ta trong cuộc chiến một mất một còn với kẻ thù để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc.

Câu chuyện của chú kết thúc ở đó. Chú nói chú không muốn đưa ra lời khuyên, bài học gì cho chúng tôi nữa mà chú muốn chúng tôi tự suy ngẫm, cảm nhận và rút ra cho riêng mình. Bởi bài học kinh nghiệm phải tự mình nhận ra mới có giá trị, còn nếu để người khác chỉ ra, nó chỉ là lời khuyên mà thôi. Rồi có tiếng vỗ tay vang lên, nồng nhiệt, vang dội cả căn phòng. Chú Kiên nhìn chúng tôi, vẫn bằng ánh mắt trìu mến và nụ cười hiền lành lúc mới bước vào.

Kí ức về cuộc chiến, cái chết chóc, sự mất mát có lẽ sẽ luôn là vết thương không bao giờ lành miệng trong lòng chú Kiên, trong lòng những người lính trở về từ chiến trường nhưng những gì chúng tôi thấy ở chú là một con người hiền lành, chất phác, lạc quan, yêu đời và chú quả thực là một người lính kiên cường.

Cuộc gặp gỡ với chú Kiên và câu chuyện của chú đã khiến chúng tôi nhận ra được thật nhiều điều trong cuộc sống này. Không chỉ là hậu quả của chiến tranh, là cái ác liệt của bom đạn mà chúng tôi còn thấy được hình ảnh của cả thế hệ trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất, gan dạ trong lịch sử hào hùng của dân tộc.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 12

Nhân dịp nhà trường tổ chức sang nghĩa trang liệt sĩ thắp hương lúc đó tôi đã gặp một người sĩ quan đang đứng thắp hương cho người đồng đội đã hi sinh vì tổ quốc. Tôi và người sĩ quan này trò chuyện rất vui và thật tình cờ tôi biết được người sĩ quan này chính là anh lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Người sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, trên những con đường huyết mạch nối giữa miền Bắc - Nam là nơi ác liệt nhất. Bom đạn của giặc Mĩ ngày đêm dội xuống những chặng đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện giữa miền Bắc - Nam. Trong những ngày đó anh chính là người lính lái xe làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí… trên con đường Trường Sơn này. Bom đạn của kẻ thù đã làm cho những chiếc xe của các anh không còn kính nữa. Nghe anh kể, tôi mới hiểu rõ hơn về sự gian khổ mà người lính đã phải chịu đựng ngày đêm. Nhưng không phải vì điều đó mà họ lùi bước, họ vẫn ung dung lái những chiếc xe không kính đó băng băng đi tới trên những chặng đường. Họ nhìn thấy đất, thấy trời thấy cả ánh sao đêm, cả những cánh chim sa họ nhìn thẳng về phía trước, nơi đó là những tương lai của đất nước được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc, ấm no, tự do. Anh lái xe kể với tôi rằng xe không có kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn chịu đựng lái xe ngày đêm, những hạt mưa sa, hạt bụi bay vào làm cho những mái tóc đen xanh trở thành trắng xóa như người già, họ cũng chưa cần rửa nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! sao tiếng cười của họ nhẹ nhõm làm sao.

Gian khổ ác liệt bom đạn của kẻ thù đâu đâu cũng có cũng không làm cho họ rờn lòng. Những chiếc xe không kính lại tiếp tục băng băng trên những tuyến đường ra trận, gặp mưa thì phải ướt áo thôi. Mưa cứ tuôn cứ xối nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cố gắng lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua những chặng đường bom đạn, ác liệt, bảo đảm cho an toàn những chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng, gió sẽ lùa rồi áo sẽ mau khô thôi. Khi đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính tôi nghĩ rằng những khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có trong các nhân vật truyện cổ tích, bài thơ vượt qua được nhưng đó là những suy nghĩ sai lầm của tôi bởi được gặp, được trò chuyện với những người lái xe năm xưa tôi mới hiểu rõ hơn về họ. Họ vẫn vui tươi tinh nghịch, những tiếng bom đạn ngày đêm vẫn luôn nổ bên tai, phá huỷ con đường cái chết luôn rình rập bên họ nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời.

Anh lái xe kể với tôi nghe những con đường vận chuyển, họ còn được gặp những đồng đội của mình, có cả những người lính đã hi sinh… Những phút giây gặp lại hiếm hoi đó cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ làm cho tình cảm của họ trở lên thấm thía hơn rồi những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát, đôi đũa dùng chung quây quần bên nhau như một đại gia đình của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi những phút giây nghỉ ngơi trên những chiếc võng đu đưa. Anh sĩ quan còn nói cho tôi biết chiếc xe không những không có kính mà xe còn không có đèn, không có mui xe thùng xe có xước những thiếu thốn này không ngăn cản được họ. Những chiếc xe băng băng đi về phía trước vì miền Nam ruột thịt, họ đầy dũng cảm, lạc quan nhưng họ vẫn sống và chiến đấu vì tổ quốc vì nhân dân. Những chuyến hàng của họ đã góp phần tạo nên chiến thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam đất nước thống nhất.

Tôi và anh lái xe chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ đó và nói chuyện rất vui. Tôi khâm phục những người lính lái xe bởi tình yêu nước, ý chí kiên cường của họ, chúng ta luôn ghi nhớ công lao to lớn của họ, chúng ta cần phải phấn đấu nhiều hơn nữa.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 13

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời cựu chiến binh về trò chuyện. Trong buổi gặp gỡ hôm đó tôi nhìn thấy một người trên ngực đeo rất nhiều huân chương thì ra chú chính là người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa năm xưa. Một trong những người đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa trong “ bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Thời gian trôi đi chiến tranh đã kết thúc những chú chiến sĩ ngày ấy nay vẫn mang dáng vẻ khỏe khoắn và ngang tang. Giọng chú dõng dạc âm vang mang đầy vẻ hào hứng nhưng lắm lúc chú cũng bùi ngùi khi nhớ lại những ngày tháng gian khổ bên đồng đội, đôi khi chị hơi rơm rớm nước mắt vẻ mặt đầy xúc động khi kể và nhớ về những người đồng chí của chú đã hi sinh rên mặt trận. Qua cuộc trò chuyện có thể thấy chú là một người rất vui tính và hóm hỉnh. Đặc biệt là khi chú kể về cuộc đời của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể năm 1969 là năm chú thường cùng anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm Mỹ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi tuyến đường, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông liên lạc giữa hai miền Nam Bắc. Chúng quyết công phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở và đã có có những người ngã xuống để bảo vệ nó. Tuy Mỹ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường này đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi :

-Các cháu có biết không, để đánh phá chúng ta Mỹ đã dùng rất nhiều loại bom để công phá, chính vì thế điều làm chú nhớ nhất đó chính là chiếc xe ở Trường Sơn. Chúng bị bom đạn làm hư hỏng có cái bị vỡ kính, có cái bị bẹp mui, có cái thì thùng bị xước…

Qua lời của chú kể chúng tôi hiểu được trận chiến năm xưa thực sự ác liệt để dành lại nền độc lập hòa bình cho đất nước các chú đã phải hi sinh rất nhiều có những người trở về nhưng để lại một phần thân thể nơi chiến trường, còn có những người mãi ra đi để lại nỗi đau mất mát cho người ở lại. Tuy vật liệu thô sơ, thậm chí lại còn bị bom Mỹ tàn phá nhưng các chú vẫn chiến đấu hết mình không ngại khó khăn nguy hiểm.

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi, gió của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề. Thế mà không ai cần rửa phì phèo châm điếu thiếu ngang nhiên, ai nấy đều nhìn nhau thật ngộ cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng thì khổ như vậy nhưng đến lúc mưa thì khổ hơn nhiều. Ở Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt của các chú tê rát cả da mặt, quần áo thì ướt hết.

Trên con đường Trường Sơn mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay đây chỉ là đơn thuần nhưng chú nghĩ rằng đây chính là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khăn mỗi khi giữa rừng bên bếp Hoàng Cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ các chú nghĩ rằng dùng chung bát đũa tức là gia đình là người trong một nhà. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng là cho họ gắn bó thêm siết chặt tình đồng đội. Chiến tranh đã mang đến biết bao đau thương, mang đến biết bao mất mát nhưng không thể làm lay chuyển được ý chí quyết tâm giành lại độc lập. Tình đồng chí đồng đội ngày thêm thêm khăng khít như người thân ruột thịt mặc dù mỗi người ở một nơi khác nhau khi có chiến tranh họ cùng hội tụ ở một nơi đó chính là con đường huyết mạch.

Được gặp gỡ và nghe câu chuyện của chú kể em càng thêm khâm phục ý chí, tình cảm của những người lính năm xưa. Công lao của họ sẽ được đời đời khắc ghi.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 14

Giờ cũng đã gần nửa đêm, nhưng tôi vẫn không sao ngủ được vì lo lắng cho bài kiểm tra 1 tiết bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào sáng mai. Ước gì, tôi được gặp những người chiến sĩ bộ đội Trường Sơn để có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống, con người họ mà cô giáo đã giảng trên lớp. Suy nghĩ ấy cứ dai dẳng theo tôi đi vào giấc ngủ…

Tỉnh dậy, trước mắt tôi hiện lên là một khung cảnh lạ lẫm, mịt mù .Đó là một con đường gập ghềnh những sỏi đá, từng đoàn, từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy trên đường không ngừng nghỉ. Bỗng, một tiếng nói cất lên về phía tôi:

- Này cháu bé, sao cháu lại đứng ở đây, nguy hiểm lắm, lên đây với chú.

Đó là một chú bộ đội chừng mười tám đôi mươi, nước da ngăm đen, khỏe mạnh, chú mặc một bộ quần áo còn dính cả đất và cát trên áo nhưng nét mặt chú tươi rạng rỡ như ánh mặt trời, chú kéo tôi lên trên xe ngồi, lúc này, tôi mới kịp để ý tới những chiếc xe ở đây. Đó là xe đã cũ, lớp vỏ bên ngoài đều đã bị bong tróc, han gỉ, đặc biệt, những chiếc xe này đều không có kính, hoặc vỡ gần hết. Một chiếc xe tồi tàn như này lại có thể đi trên con đường xấu xí, chông gai thế này ư?

- Bọn chú là bộ đội đang trên đường vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí vào miền Nam. Đây là nơi cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt nhất.

Thì ra, đây chính là con đường Trường Sơn huyết mạch nổi tiếng năm nào. Những chú bộ đội ở đây là nhân vật chính trong bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật, những người lính không ngại khó khăn gian khổ với một sức mạnh, một ý chí kiên cường bất khuất.Tôi hỏi, tại sao xe không có kính, các chú giải thích một cách hài hước:

- Không có kính không phải vì xe không có kính, bom giật bom rung kính vỡ mất rồi.

Quả vậy, nhìn cảnh vật xung quanh, ta mới thấy được sự đáng sợ của chiến tranh, cả khu rừng Trường Sơn toàn là những gốc cây trơ trụi do những đợt trải bom ác liệt, khói bụi mù mịt cùng với một mùi hăng của thuốc súng khiến ta cảm giác lảo đảo, khó chịu, chim muông tan tác, tiếng trực thăng, máy bay ngay trên đầu làm ta cảm nhận rõ ràng tử thần cận kề. Ấy vậy mà các chú vẫn ung dung, không quản ngại khó khăn, giữ tư thế ngẩng cao đầu mà bước tiếp trên con đường gian nan, hiểm trở. Qua lời kể của các chú, những khó khăn đó, những thiếu thốn đó lại trở nên rất lãng mạn, trữ tình. Trong mắt các chú không khói bom mà chỉ có gió, sao trời, cánh chim, con đường chạy thẳng vào tim…Từ buồng lái đã vỡ hết kính, làn gió đã lùa vào vừa cay vừa đắng cũng chỉ như đang xoa dịu, rồi cả những hạt mưa sa, hạt bụi bay vào làm cho những mái tóc trắng xóa như người già, họ cũng chưa cần rửa nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! tiếng cười của họ lạc quan làm sao! Đặc biệt hơn cả là cái cách mà những người lính chào nhau: bắt tay nhau qua ô cửa kính vỡ. Họ không hề quen biết nhau, nhưng vẫn không ngần ngại trao cho nhau những cái bắt tay, những lời động viên, thăm hỏi, tiếp sức cho nhau để cùng nhau vượt qua cung đường phía trước rồi khi dừng xe nghỉ ngơi, họ lại quây quần bên chiếc bếp Hoàng Cầm, cùng nấu cơm, cùng chung bát đũa. Họ coi nhau là một gia đình, là người một nhà.Thú tình cảm mộc mạc đơn thuần đó lại là sức mạnh giúp dân tộc ta chiến thắng quân thù, bảo vệ hòa bình tổ quốc.

Tiếng mẹ gọi dậy đi học đánh thức tôi khỏi giấc mơ đẹp, nhớ lại những lời tâm sự của người lính tôi khâm phục và biết ơn ý chí kiên cường, tình đồng chí, đồng đội của họ để con cháu được cuộc sống tươi đẹp của chúng ta ngày hôm nay.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 15

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời cựu chiến binh về trò chuyện. Trong buổi gặp gỡ hôm đó tôi nhìn thấy một người trên ngực đeo rất nhiều huân chương thì ra chú chính là người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa năm xưa. Một trong những người đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa trong “ bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Thời gian trôi đi chiến tranh đã kết thúc những chú chiến sĩ ngày ấy nay vẫn mang dáng vẻ khỏe khoắn và ngang tang. Giọng chú dõng dạc âm vang mang đầy vẻ hào hứng nhưng lắm lúc chú cũng bùi ngùi khi nhớ lại những ngày tháng gian khổ bên đồng đội, đôi khi chị hơi rơm rớm nước mắt vẻ mặt đầy xúc động khi kể và nhớ về những người đồng chí của chú đã hi sinh rên mặt trận. Qua cuộc trò chuyện có thể thấy chú là một người rất vui tính và hóm hỉnh. Đặc biệt là khi chú kể về cuộc đời của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể năm 1969 là năm chú thường cùng anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm Mỹ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi tuyến đường, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông liên lạc giữa hai miền Nam Bắc. Chúng quyết công phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở và đã có có những người ngã xuống để bảo vệ nó. Tuy Mỹ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường này đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi :

-Các cháu có biết không, để đánh phá chúng ta Mỹ đã dùng rất nhiều loại bom để công phá, chính vì thế điều làm chú nhớ nhất đó chính là chiếc xe ở Trường Sơn. Chúng bị bom đạn làm hư hỏng có cái bị vỡ kính, có cái bị bẹp mui, có cái thì thùng bị xước…

Qua lời của chú kể chúng tôi hiểu được trận chiến năm xưa thực sự ác liệt để dành lại nền độc lập hòa bình cho đất nước các chú đã phải hi sinh rất nhiều có những người trở về nhưng để lại một phần thân thể nơi chiến trường, còn có những người mãi ra đi để lại nỗi đau mất mát cho người ở lại. Tuy vật liệu thô sơ, thậm chí lại còn bị bom Mỹ tàn phá nhưng các chú vẫn chiến đấu hết mình không ngại khó khăn nguy hiểm.

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi, gió của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề. Thế mà không ai cần rửa phì phèo châm điếu thiếu ngang nhiên, ai nấy đều nhìn nhau thật ngộ cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng thì khổ như vậy nhưng đến lúc mưa thì khổ hơn nhiều. Ở Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt của các chú tê rát cả da mặt, quần áo thì ướt hết.

Trên con đường Trường Sơn mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay đây chỉ là đơn thuần nhưng chú nghĩ rằng đây chính là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khăn mỗi khi giữa rừng bên bếp Hoàng Cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ các chú nghĩ rằng dùng chung bát đũa tức là gia đình là người trong một nhà. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng là cho họ gắn bó thêm siết chặt tình đồng đội. Chiến tranh đã mang đến biết bao đau thương, mang đến biết bao mất mát nhưng không thể làm lay chuyển được ý chí quyết tâm giành lại độc lập. Tình đồng chí đồng đội ngày thêm thêm khăng khít như người thân ruột thịt mặc dù mỗi người ở một nơi khác nhau khi có chiến tranh họ cùng hội tụ ở một nơi đó chính là con đường huyết mạch.

Được gặp gỡ và nghe câu chuyện của chú kể em càng thêm khâm phục ý chí, tình cảm của những người lính năm xưa. Công lao của họ sẽ được đời đời khắc ghi.

Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 16

Giờ cũng đã gần nửa đêm, nhưng tôi vẫn không sao ngủ được vì lo lắng cho bài kiểm tra 1 tiết bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào sáng mai. Ước gì, tôi được gặp những người chiến sĩ bộ đội Trường Sơn để có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống, con người họ mà cô giáo đã giảng trên lớp. Suy nghĩ ấy cứ dai dẳng theo tôi đi vào giấc ngủ…

Tỉnh dậy, trước mắt tôi hiện lên là một khung cảnh lạ lẫm, mịt mù .Đó là một con đường gập ghềnh những sỏi đá, từng đoàn, từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy trên đường không ngừng nghỉ. Bỗng, một tiếng nói cất lên về phía tôi:

- Này cháu bé, sao cháu lại đứng ở đây, nguy hiểm lắm, lên đây với chú.

Đó là một chú bộ đội chừng mười tám đôi mươi, nước da ngăm đen, khỏe mạnh, chú mặc một bộ quần áo còn dính cả đất và cát trên áo nhưng nét mặt chú tươi rạng rỡ như ánh mặt trời, chú kéo tôi lên trên xe ngồi, lúc này, tôi mới kịp để ý tới những chiếc xe ở đây. Đó là xe đã cũ, lớp vỏ bên ngoài đều đã bị bong tróc, han gỉ, đặc biệt, những chiếc xe này đều không có kính, hoặc vỡ gần hết. Một chiếc xe tồi tàn như này lại có thể đi trên con đường xấu xí, chông gai thế này ư?

- Bọn chú là bộ đội đang trên đường vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí vào miền Nam. Đây là nơi cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt nhất.

Thì ra, đây chính là con đường Trường Sơn huyết mạch nổi tiếng năm nào. Những chú bộ đội ở đây là nhân vật chính trong bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật, những người lính không ngại khó khăn gian khổ với một sức mạnh, một ý chí kiên cường bất khuất.Tôi hỏi, tại sao xe không có kính, các chú giải thích một cách hài hước:

- Không có kính không phải vì xe không có kính, bom giật bom rung kính vỡ mất rồi.

Quả vậy, nhìn cảnh vật xung quanh, ta mới thấy được sự đáng sợ của chiến tranh, cả khu rừng Trường Sơn toàn là những gốc cây trơ trụi do những đợt trải bom ác liệt, khói bụi mù mịt cùng với một mùi hăng của thuốc súng khiến ta cảm giác lảo đảo, khó chịu, chim muông tan tác, tiếng trực thăng, máy bay ngay trên đầu làm ta cảm nhận rõ ràng tử thần cận kề. Ấy vậy mà các chú vẫn ung dung, không quản ngại khó khăn, giữ tư thế ngẩng cao đầu mà bước tiếp trên con đường gian nan, hiểm trở. Qua lời kể của các chú, những khó khăn đó, những thiếu thốn đó lại trở nên rất lãng mạn, trữ tình. Trong mắt các chú không khói bom mà chỉ có gió, sao trời, cánh chim, con đường chạy thẳng vào tim…Từ buồng lái đã vỡ hết kính, làn gió đã lùa vào vừa cay vừa đắng cũng chỉ như đang xoa dịu, rồi cả những hạt mưa sa, hạt bụi bay vào làm cho những mái tóc trắng xóa như người già, họ cũng chưa cần rửa nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! tiếng cười của họ lạc quan làm sao! Đặc biệt hơn cả là cái cách mà những người lính chào nhau: bắt tay nhau qua ô cửa kính vỡ. Họ không hề quen biết nhau, nhưng vẫn không ngần ngại trao cho nhau những cái bắt tay, những lời động viên, thăm hỏi, tiếp sức cho nhau để cùng nhau vượt qua cung đường phía trước rồi khi dừng xe nghỉ ngơi, họ lại quây quần bên chiếc bếp Hoàng Cầm, cùng nấu cơm, cùng chung bát đũa. Họ coi nhau là một gia đình, là người một nhà.Thú tình cảm mộc mạc đơn thuần đó lại là sức mạnh giúp dân tộc ta chiến thắng quân thù, bảo vệ hòa bình tổ quốc.

Tiếng mẹ gọi dậy đi học đánh thức tôi khỏi giấc mơ đẹp, nhớ lại những lời tâm sự của người lính tôi khâm phục và biết ơn ý chí kiên cường, tình đồng chí, đồng đội của họ để con cháu được cuộc sống tươi đẹp của chúng ta ngày hôm nay.

Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 1

“Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay. Trong buổi lễ kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12) năm nay, tôi đã được gặp gỡ các chú bộ đội và may mắn là người thay mặt các bạn để phát biểu những suy nghĩ của thế hệ mình về thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ Tổ quốc. Giây phút ấy khiến cho tôi thực sự xúc động.

Top 9 bài Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam hay nhất (ảnh 1)

Buổi gặp gỡ được tổ chức tại hội trường của trường tôi. Từ sáng sớm, chúng tôi đã đến trường để chuẩn bị chu đáo mọi thứ để cuộc gặp gỡ được diễn ra tốt đẹp nhất. Tôi và vài bạn nữa mang khăn trải bàn từ nhà đi, đặt lọ hoa, chuẩn bị cả nước, hoa quả và bánh trái bày biện trên bàn thật đẹp. Buổi lễ được bắt đầu vào lúc 7h30. Các thầy cô giáo đều đã đến đông đủ. Lũ học trò chúng tôi thì háo hức chờ đợi. Cuối cùng thì các chú bộ đội cũng tới trong bộ quân phục màu xanh lá, với quân hàm và huy chương mà các chú có được trong suốt cả cuộc đời.

Sau nghi thức chào cờ, thầy hiệu trưởng đã đọc diễn văn chào mừng Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12. Kết thúc bài phát biểu của thầy hiệu trưởng, một chú bộ đội thay mặt cả đoàn lên trò chuyện với chúng tôi. Chú là một người cương nghị với giọng nói sang sảng. Khuôn mặt chú đã hiện rõ dấu vết thời gian với những nếp nhăn. Thế nhưng, tôi ấn tượng nhất với chú là đôi mắt. Đôi mắt chú vẫn còn rất tinh tường và đặc biệt đó là một đôi mắt với ánh nhìn mạnh mẽ, cứng cỏi cũng có sự bình tĩnh. Đôi mắt ấy khiến tôi cảm thấy không có nỗi sợ quá lớn đối với chú ở hiện tại nưa. Có lẽ chú đã trải qua hết thảy những nỗi đau và sự sợ hãi, cũng chứng kiến những điều kinh khủng nhất rồi nên chú mới bình tĩnh, điềm đạm đến vậy. Chú kể cho chúng tôi nghe về cuộc chiến ác liệt mà chú và đồng đội của mình đã phải trải qua, cả những mất mát hi sinh trong mỗi trận đánh mà quân, dân ta cả quân địch cũng thế. Chưa bao giờ tôi thấy thấu hiểu và khâm phục những người lính trong cuộc chiến vệ quốc của ta đến thế. Nhờ có những hi sinh cao cả ấy mà mảnh đất của cha ông ta được giữ lại một cách trọn vẹn. Nếu không có họ, không biết đất nước này sẽ đi về đâu.

Chú cùng chúng tôi trò chuyện rất lâu. Chú cũng giải đáp những thắc mắc của chúng tôi về cuộc sống, chiến đấu của các chú trong quá khứ bằng một thái độ rất thân thiện và nhẫn nại. Không hiểu sao tôi thấy chú thật gần gũi và thân thiết giống như người người mà tôi đã quen biết từ rất lâu chứ không phải chỉ vừa mới gặp cách đây vài tiếng. Phải chăng do câu chuyện mà chú chia sẻ với chúng tôi chân thực quá hoặc cũng bởi vì cách chú lắng nghe chăm chú những câu hỏi ngô nghê của chúng tôi, và trả lời chúng một cách rất chân thành? Tôi cũng không biết nữa, nhưng dù sao thì tôi cũng thấy chú thân thiết hơn rất nhiều. Cuối cùng tôi là người thay mặt tất cả học sinh trong trường lên phát biểu suy nghĩ của mình. Dù rất hồi hộp nhưng tôi thấy ánh mắt khích lệ mà các thầy cô giáo và các bạn dành cho tôi, tôi thấy mình bình tĩnh hơn rất nhiều. Tôi bước lên bục phát biểu, hít một hơi thật sâu và phát biểu bằng cảm xúc thật của mình qua câu chuyện của chú:

- Thưa các bác, các chú, các thầy cô giáo và các bạn học sinh đang có mặt trong hội trường ngày hôm nay, cháu là Ngân, học sinh lớp 9A2. Cháu rất vinh dự khi hôm nay được đại diện cho toàn trường để lên đây, phát biểu cảm nghĩ của mình. Thực sự là lúc này cháu rất run và hồi hộp - Hội trường cười ồ lên, khiến không khí yên lặng và căng thẳng cũng dịu đi không ít. Tôi thấy tự tin hơn rất nhiều - Chúng cháu may mắn được sinh ra khi đất nước đã hòa bình, thống nhất nên có rất nhiều điều chúng cháu chưa từng trải qua. Đặc biệt là những đau thương, mất mát trong cuộc chiến vệ quốc. Nhưng hôm nay, khi nghe các chú chia sẻ, cháu thực sự xúc động và cháu cũng hiểu hơn về mất mát, hi sinh và khốc liệt mà bất kì cuộc chiến tranh nào mang lại, chứ không riêng gì trên đất nước Việt Nam ta. Cháu cũng càng thêm ngưỡng mộ sự hi sinh và ý chí của lớp lớp thế hệ cha anh đã nối gót nhau vào chiến trường, tham gia cuộc chiến dù biết nó nguy hiểm. Lớp người trẻ tuổi chúng cháu sẽ luôn biết ơn những con người quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh và trân trọng những gì chúng cháu đang có. Nhân ngày 22/12, cháu thay mặt cho tất cả học sinh, chúc các chú, các bác có một ngày lễ kỉ niệm thật vui vẻ, ý nghĩa. Cháu xin cảm ơn!

Dưới hội trường có tiếng vỗ tay lác đác rồi lớn hơn, vang hơn. Tôi cảm thấy mình vừa làm được điều gì đó thật lớn lao. Buổi gặp gỡ kết thúc thành công trong niềm vui và sự thấu hiểu. Ánh nắng đã nhạt dần, chúng tôi chia tay các chú, các bác trong lưu luyến. Nhưng buổi gặp gỡ ngày hôm nay đã để lại trong lòng tôi một cảm xúc kì lạ. Đó không chỉ là sự biết ơn mà còn là cả sự tự hào về thế hệ cha anh và cả niềm tin và sự quyết tâm vào tương lai của tôi nữa.

Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 2

Trong quá trình trưởng thành của mỗi chúng ta luôn luôn có trong tâm trí của mình những hình tượng anh hùng với sức mạnh siêu nhiên,vĩ đại, có tầm vóc tầm cỡ. Ngay từ khi còn nhỏ, ông bà tôi đã kể cho tôi nghe về câu chuyện thời kháng chiến, về câu chuyện người lính cụ Hồ anh dũng, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Đó cũng chính là hình tượng người anh hùng trong tâm trí của tôi. Tôi luôn ao ước được gặp họ một lần, luôn ngưỡng mộ họ bởi những hi sinh vĩ đại của họ cho Tổ Quốc. Cuối cùng mong ước nhỏ bé của tôi cũng được thực hiện. Nhân ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, Ủy ban Nhân dân xã đã mời các chú bộ đội về để trò chuyện cùng chúng tôi- những thiếu niên, thanh niên đương là mầm non của đất nước.

Nghe tin được gặp gỡ và trò chuyện cùng các chú bộ đội từ cô giáo chủ nhiệm, cả lớp chúng tôi hò reo phấn khích. Trở về nhà mà lòng tôi cứ háo hức, nôn nóng, chỉ mong trời sáng thật mau. Đêm đó tôi cứ nghĩ mãi, tưởng tượng mãi không biết các chú có giống như lời ông bà tôi kể dạo trước không nhỉ, các chú có trình diễn cho chúng tôi xem màn bắn súng thật không hay các chú sẽ nói gì với những đứa nhỏ là chúng tôi… Ôi thật háo hức!

Sáng hôm sau mọi người đều tập trung rất sớm và đông đủ. Cơn gió lạnh giá của mùa đông cũng không thể làm giảm nhiệt độ của bầu không khí náo nhiệt, háo hức ở đây. Chúng tôi đã xếp thành những hàng ngay ngắn để chuẩn bị chào đón các chú. Một binh đoàn mặc quân phục xanh đi đầu là lá cờ đỏ sao vàng chân sải những bước đều tăm tắp với khẩu súng đeo sau lưng đi vào trong sân. Chúng tôi đứng lên vỗ tay chào đón. Nghi lễ chào cờ được tiến hành trong lời ca hào hùng của dân tộc. Tiếp đó là tiết mục văn nghệ của học sinh chúng tôi. Các chú bộ đội cũng góp những tiết mục đánh đàn và hát để tặng cho chúng tôi. Sau khi kết thúc tiết mục văn nghệ, Bí thư đoàn xã thông báo với toàn thể mọi người rằng đã mời một vị khách đặc biệt, đến để tâm sự với chúng tôi về những năm tháng kháng chiến chống Pháp-Mĩ oai hùng của dân tộc. Ông Năm là cựu chiến binh trở về từ chiến trường miền Nam của Tổ quốc sau khi chiến tranh kết thúc. Ông cũng là người đi qua hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Ông đã già, tóc đã bạc và chân tay cũng yếu hẳn nhưng những câu chuyện ông kể cho chúng tôi lại như mới xảy ra hôm qua vậy, chẳng sót chi tiết nào. Lời kể của ông vang lên mang theo một miền kí ức ùa về vây lấy chúng tôi trong không khí hiu lạnh của mùa đông. Ông kể rằng… Kháng chiến chống Pháp-Mĩ là cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, là thời đại nhuộm đỏ sắc máu của cha ông đi trước, của những người đồng đội, đồng chí chiến đấu. Mọi thứ hiện về trong kí ức ông là mùi của bom rơi đạn nổ, là hơi thở cuối cùng của người đồng đội trút trên vai áo, là cái ôm cuối cùng lạnh ngắt, là lời hứa hẹn trở về của một bóng hình đã xa. Ông kể tới đó, đôi mắt đã mờ đi vì tuổi tác và cũng vì cả ảnh hưởng từ chiến tranh bỗng nhiên nhỏ lệ. Ông hỏi chúng tôi:

- Các cháu có biết điều quý giá nhất trong thời chiến là gì không?

Trong khi chúng tôi đều trả lời là vũ khí, là lương thực, là lực lượng quân đội… thì ông chỉ nhẹ nhàng lắc đầu. Đến khi không còn cánh tay nào giơ lên xin đoán thêm nữa, ông mới nhẹ nhàng bảo chúng tôi:

- Đó là tình đồng chí, tình đồng bào, là cái tình của những con người không chung dòng máu nhưng sẵn sàng vì nhau mà chiến đấu.

Ông kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về người đồng đội đã nằm lại chiến trường khốc liệt năm ấy. Họ đã cùng nhau vào sinh ra tử, cùng nhau đột nhập bốt địch, cùng nhau lập chiến công, cùng nhau hẹn ngày trở về. Thế nhưng trông một cuộc đột kích trụ sở của địch, họ bị phát hiện. Vì để bảo vệ cho ông, cho những người đồng đội còn lại, người chiến sĩ anh dũng ấy đã liều mình xông vào vòng vây, cản quân địch. Một mình anh chịu trăm nghìn viên đạn, một mình anh cản lại bước chân kẻ thù để giải thoát cho đồng đội. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, trên môi anh vẫn nở nụ cười hạnh phúc.

- Ta có trở về tìm anh ấy vào một ngày cách ngày đó không xa sau khi nghe tin truyền ra địch tập hợp xác bộ đội Việt Nam bỏ ra bãi đất gần sông. Ta tìm thấy anh ấy, tìm thấy trong người anh bức thư còn nguyên tem chưa kịp gửi về nhà. Ta khóc thương cho người đồng đội anh dũng, quả cảm của mình. Ta thương anh bao nhiêu lại thù giặc bấy nhiêu. Ta đặt anh nằm lại nơi đó, dưới một tán cây cổ thụ xanh phía bìa rừng. Anh ấy, đã từng yêu cây lắm….

Chúng tôi đều khóc nức nở khi nghe câu chuyện của ông. Thì ra trong hoàn cảnh éo le, ngặt nghèo của thời chiến, những vị anh hùng trong trái tim tôi lại dũng cảm đến thế, vĩ đại đến thế. Tôi ngước nhìn lên, trong khóe mắt đã đầy những nếp nhăn từng hàng nước mắt lăn dài, rơi xuống chiếc huy chương lấp lánh sao vàng ông đeo trước ngực. Lại thêm một lần nữa, hình tượng bộ đội cụ Hồ trở nên vĩ đại trong lòng tôi.

Buổi lễ kết thúc trong niềm xúc động nghẹn ngào, trong âm vang hào hùng của một thời oanh liệt, từ sâu thẳm trong trái tim của những thế hệ trẻ chúng tôi hôm nay rực cháy một niềm tin, một ý chí quyết tâm cố gắng học hành để bảo vệ và dựng xây đất nước để xứng đáng với sự hi sinh của cha anh thuở trước.

Kể lại kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ nhân ngày 20/11 – mẫu 1

Trong suốt cuộc đời dài và rộng của con người, thì những tháng năm được ngồi trên ghế nhà trường là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất bởi khi ấy, ta chỉ là những đứa học trò hồn nhiên, vô lo, vô nghĩ, không bị tiền bạc áo cơm đè nặng trên đôi vai. Tôi cũng có những năm tháng như vậy với những kỷ niệm đẹp đẽ dưới những mái trường thân yêu bên cạnh những người bạn và thầy cô yêu quý. Một trong những kỷ niệm mà tôi nhớ nhất không bao giờ quên với thầy cô giáo của mình là khi tôi học lớp ba, bị trượt kỳ thi học sinh giỏi.

Khi tôi còn nhỏ, tôi đã được cha mẹ dạy rằng phải học hành thật tốt, như vậy mai sau mới đỡ vất vả. Suy nghĩ ấy đã hình thành trong con người tôi bởi thế cho dù khi còn bé đến lúc lớn lên tôi luôn cố gắng học tập thật chăm chỉ vì tương lai của bản thân. Khi tôi còn học lớp ba, tôi đã rất cố gắng rất nhiều trong những môn văn hóa như văn và toán. Bởi vậy ngay từ đầu năm, tôi đã dễ dàng để lại ấn tượng tốt trong lòng cô giáo của tôi khi đó, cô Hà – giáo viên chủ nhiệm của lớp tôi. Cô luôn giúp đỡ tôi trên lớp, tận tình giảng dạy và chỉ bảo cho tôi. Tôi còn nhớ, có một lần tôi viết văn được cô cho mười điểm. Điểm mười ấy giống như một dấu ấn ghi nhận năng lực của tôi, luôn nhắc nhở tôi phải cố gắng hơn nữa để học tốt môn học này. Cô Hà luôn khuyến khích tôi sáng tạo trong các bài văn của mình. Nhờ có sự nhiệt tình của cô mà lòng tôi như được thổi lửa, tôi yêu môn văn lúc nào không hay. Cô luôn trêu tôi: “Em có tố chất học văn đấy. Cố lên! Biết đâu mai sau trở thành cô giáo như cô thì sao?” Mỗi khi ấy, tôi chỉ biết cười với cô nhưng trong lòng tôi vui lắm, cảm thấy mình như được tiếp thêm sức mạnh để cố gắng hơn trong học tập. Trường tiểu học của tôi hồi ấy cuối năm nào cũng tổ chức thi học sinh giỏi để các học sinh có cơ hội được cọ sát và rèn luyện bản thân. Năm ấy, tôi cũng thấy mình náo nức, có chút phấn khích đợi chờ vào cuộc thi cuối năm để có cơ hội thể hiện năng lực của bản thân mình. Ngày thi cuối cùng cũng đến. Lúc làm bài thi do chủ quan, đinh ninh mình sẽ làm được nên tôi cũng không đọc kỹ đề bài, chỉ đọc lướt qua đề bài văn và cứ thế cắm cúi viết mà chẳng hề hay biết mình đã lạc đề. Hôm ấy đi thi về, cô giáo có hỏi qua thì tôi cũng cứ thế tự tin trả lời rằng mình làm bài tốt. Mấy ngày sau đó, tôi cũng không nghĩ về bài làm quá nhiều nữa mà bắt đầu nghỉ xả hơi. Đến một buổi tối, mẹ tôi đi làm về thông báo cho tôi rằng hôm nay cô giáo có gọi cho mẹ nói kết quả thi học sinh giỏi. Lúc nghe lời mẹ nói, tai tôi như ù đi, tôi không nói gì được vì sốc, chỉ biết cứ thế chạy vội lên phòng không chịu ra ngoài vì quá thất vọng vì bản thân: môn văn tôi dưới trung bình dù cho đấy là môn mà tôi tự tin nhất. Tôi chỉ biết tự trách bản thân, tại sao lại ngu xuẩn đến mức chủ quan mà không đọc kỹ yêu cầu của đề để rồi đến cuối cùng lại xảy ra sai lầm ngu ngốc như thế. Cả buổi tối hôm đấy, tôi cứ nằm trong phòng khóc mà ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau dậy, đầu tôi đau như búa bổ, cảm thấy cả người mình mẩy đều mệt mỏi rã rời, không những thế còn thấy nóng bừng khó chịu. Lúc đi qua chiếc gương ở phía tủ quần áo tôi mới để ý cả mặt đều nổi lên những chấm đỏ rất dễ sợ, vội bảo mẹ thì mới biết mình bị sốt phát ban. Lúc ấy tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: “Sao số mình xui xẻo thế, đã thi trượt học sinh giỏi lại còn bị ốm cùng lúc thế này!”. Do cơn sốt nên cuối cùng hôm chụp ảnh tập thể lớp cuối năm ấy tôi đã không thể đến. Mấy ngày sau đến trường, tôi không dám nhìn thẳng mặt cô, lúc nào cũng chỉ biết cúi gằm xuống mặt đất vì cảm thấy bản thân đã làm cô thất vọng. Thế nhưng ngay buổi sáng cô đã gọi riêng tôi xuống sân trường khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Cô nói:

- Đứa trẻ ngốc, cô nghe mẹ em kể lại rồi. Việc gì em phải làm khổ mình như thế. Người xưa đã có câu: thắng không kiêu bại không nản. Trong đời học sinh của em còn nhiều cuộc thi thử thách hơn này nhiều, vậy nên đừng có buồn, điều quan trọng là phải biết rút ra bài học để lần sau mình không tái phạm nữa. Vậy nên cô mong em trong tương lai sẽ có nhiều cơ hội để cố gắng và phát huy bản thân mình hơn nữa nhé!

- Dạ vâng ạ! – Tôi nghẹn ngào mà trả lời.

Tôi sau khi nghe lời dặn dò chỉ bảo của cô xong liền cảm thấy mắt mình có chút cay cay. Cô vẫn luôn quan tâm tôi và mong muốn tôi có thể lớn khôn, trưởng thành hơn nữa trên con đường học tập đầy gian nan. Hơn nữa ngày hôm ấy, tôi còn được cô tặng cho một bất ngờ lớn hơn – tôi được chụp cùng cô một bức hình riêng để làm kỷ niệm cuối năm học. Bức ảnh tôi và cô cùng nhau đứng dưới gốc phượng đỏ rực năm ấy vẫn được tôi giữ gìn đến tận bây giờ. Mỗi lần lôi bức ảnh ra ngắm, tôi lại nhớ về một thời học trò non nớt, đã từng có lúc ngốc nghếch mà mắc phải sai lầm như thế và cũng thấy trong lòng mình ngọt ngào biết bao vì đã có được một người cô giáo đã tận tâm chỉ bảo mình đến như vậy. Lời dạy bảo của cô luôn in sâu trong trái tim tôi.

Giờ đây, tôi đã lớn khôn, đã dần trưởng thành qua từng ngày, cô cũng đã lái biết bao chuyến đò dẫn dắt những lứa học sinh nên người nhưng tôi vẫn giữ liên lạc với cô. Vào những dịp kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam, tôi lại về thăm lại trường xưa, thăm lại người cô giáo đã từng dìu dắt mình suốt năm lớp ba. Dù thời gian có trôi qua, tôi vẫn sẽ luôn nhớ về cô – người mẹ hiền thứ hai của tôi cùng kỷ niệm tuổi học trò nhỏ của mình hồn nhiên mà quý giá.

Kể lại kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ nhân ngày 20/11 – mẫu 2

Lứa tuổi học trò, được cắp sách tới trường đối với tôi là một quãng thời gian đẹp nhất. Bởi khi đó, tôi được sống trong tình yêu thương, sự sẻ chia của các thầy cô giáo, của các bạn đồng trang lứa và cả mái trường thân yêu này nữa. Vì thế, nếu nhắc tới kỉ niệm giữa mình và thầy cô, thì tôi chẳng biết phải bắt đầu từ đâu và chọn câu chuyện gì, bởi câu chuyện nào với tôi cũng ắp đầy kỉ niệm đẹp, ngọt ngào. Và có một kỉ niệm gần đây nhất, hồi lớp 8 mà có lẽ suốt cả cuộc đời này tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được những giây phút ấy. Cám ơn cuộc đời đã mang mẹ về bên con!

Thời tiết mùa hạ thường kéo đến những cái nóng bức, ngột ngạt và theo sau đó là những bệnh dịch lây truyền sinh sôi phát triển. Vì thế, tôi đã bị ốm sốt virut – một căn bệnh do loài muỗi kí sinh gây ra. Khi ấy, gia đình tôi nghèo lắm, cha mẹ phải xa nhà đi công nhân, tôi ở cùng ông nội. Mặc dù lúc ấy ông tôi đã ngoài 70 tuổi, già cả và cũng hay bị ốm lắm nhưng ông tôi vẫn minh mẫn và chăm sóc tôi rất chu đáo. Biết gia đình tôi khó khăn, các bạn trong lớp và đặc biệt là cô giáo chủ nhiệm – cô Thủy luôn đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tôi và gia đình tôi rất nhiều trong học tập và cả trong đời sống nữa. Có lẽ vì thế, khi nhận được lá đơn xin nghỉ học bị ốm, cô Thủy sau tiết dạy đã đến thăm tôi ngay tức khắc. Tôi biết, một phần cũng là trách nhiệm nhưng cao hơn là tình yêu thương học trò mà ai ai khi ở gần cô cũng cảm nhận được điều đó. Đúng lúc ấy, tôi lên cơn co giật thì cô Thủy bước vào, thấy chân tay tôi lạnh toát và có biểu hiện lạ, cô cũng lúng túng, chỉ biết ôm tôi vào lòng, vuốt ve sau lưng tôi và cố gắng động viên bằng một giọng nói trầm ấm, êm dịu: "Tùng ơi, cố lên con", "có cô bên cạnh đây rồi, chỉ vài phút nữa sẽ có xe đưa con lên bệnh viện thôi, cố lên con", "cô thương con nhiều lắm"... Trong cơn sốt mê man, chập chờn hư hư, thực thực, tôi như một đứa trẻ được gặp mẹ sau bao ngày xa cách, tưởng cô là mẹ, tôi chỉ biết nói và khóc trong hơi thở yếu ớt: "mẹ...mẹ...mẹ". Nước mắt cô nhỏ xuống khuôn mặt nóng hổi của tôi, tôi cảm thấy được đó là giọt nước mắt của đại dương tình yêu thương bao la của một người mẹ hiền.

Xe cứu thương đã tới, cô cùng đoàn bác sĩ đưa tôi tới bệnh viện. Khi ở trong viện, cô luôn túc trực trông tôi. Còn ông tôi đã già cả, cũng ốm yếu nên ông không thể tới chăm sóc cho tôi được. Trong cơn bất tỉnh, dù không biết được gì nhưng tôi luôn có cảm nhận, cô luôn bên cạnh, trò chuyện với tôi, mong tôi tỉnh lại. Và cô đã nấu cháo, bón cho tôi từng thìa, từng thìa một, nhẹ nhàng, âu yếm như một người mẹ sinh ra tôi vậy. Từng cử chỉ, từng lời nói đều tràn đầy tình yêu của một người mẹ dành cho đứa con ngây thơ, bé bỏng. Lúc này, tôi mới có dịp ngắm nhìn cô kĩ hơn. Dáng người cô cao dong dỏng, mái tóc đen xõa xuống, dài tới ngang lưng, điểm tô trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm là hai đôi mắt long lanh, ắp đầy lòng bao dung nhân hậu của một người phụ nữ từ tâm, của một cô giáo đức hạnh. Có lẽ, vì phải thức trông tôi nên mắt cô thâm quầng vì thiếu ngủ. Đang miên man suy nghĩ, thì các bạn trong lớp kéo tới thăm. Cô đi ra ngoài mua chút ít hoa quả cho cả lớp. Trò chuyện với các bạn, thì tôi mới biết cô đã xin nghỉ dạy mấy hôm nay trên trường để vào viện chăm sóc cho tôi. Trong lòng tôi lúc ấy không biết phải làm như thế nào, vừa xen lẫn lòng biết ơn cô, lại vừa trách móc mình đã làm cô vất vả, lao tâm vì mình.

Xuất viện được trở về nhà, tuy vẫn chưa đi được học ngay vì sức khỏe còn yếu nhưng sau mỗi buổi trưa đi dạy về, cô lại vào thăm tôi, mua hoa quả, bánh trái mà tôi thích ăn với hi vọng tôi nhanh nhanh bình phục, tiếp tục tới lớp. Cô tận tụy giảng lại cho tôi những bài học mà tôi bỏ lỡ và không ngừng bảo ban, dạy dỗ tôi những bài học về tình người ấm áp. Mặc dù bây giờ đã không còn được bên cạnh cô, bởi cô đã cùng gia đình chuyển vào Nam sinh sống nhưng tôi vẫn gọi điện hỏi thăm cô và gia đình. Trong lòng tôi luôn khắc sâu những giây phút và tình cảm yêu thương mà cô dành cho tôi trong suốt quãng thời gian đi học. Tình yêu thương đó là động lực, là hành trang thôi thúc tôi mạnh mẽ, luôn cố gắng nỗ lực hết mình trong học tập, cuộc sống; luôn biết trân trọng những giá trị bình dị, gần gũi mà bền bền vững sâu xa, đó là: gia đình, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước bằng tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng biết ơn sâu sắc đối với họ nữa. Nhân ngày 20 - 11, tôi xin gửi lời tri ân tới cô – người mẹ thứ hai của cuộc đời tôi: "Con chúc mẹ và gia đình luôn hạnh phúc, bình an..."

Kể về một lần trót xem trộm nhật kí của bạn – mẫu 1

Có người đã từng cho rằng: “Nếu bạn đóng cửa với mọi sai lầm, chân lí cũng bị bạn cho đứng ở ngoài cửa.” Đúng như vậy, cuộc đời ta ai cũng đã từng mắc sai lầm, nhưng điều để lại cho chúng ta lại là những kinh nghiệm quý giá. Tôi cũng đã từng như thế, đã từng vì tò mò mà trót xem trộm nhật kí của bạn. Câu chuyện ấy cho đến nay vẫn đau đáu trong trái tim tôi, nhưng đồng thời cũng đã để lại cho tôi bài học đắt giá.

Đó là một ngày cuối năm lớp 8, khi cái nắng oi ả và tiếng ve râm ran trên từng bụi cây đã gọi mùa hè của chúng tôi trở lại. Giờ ra chơi, mấy đứa bạn tôi đứa ríu rít chạy ra sân trường chơi ô ăn quan, đứa túm năm tụm bảy trò chuyện cười vang cả một góc trời. Tôi lơ đễnh ngồi một chỗ, ngắm nhìn cái nắng vàng ươm đang chảy trên từng ngọn cây, len qua từng kẽ lá, lòng chợt cảm thấy thích thú vì một kì nghỉ hè đã sắp cận kề. Chợt con mắt tôi liếc qua chỗ ngồi của Lan – cô bạn bàn trên đã chạy ra ngoài sân nhảy dây cùng chúng bạn lúc nào. Lan là một cô gái vui vẻ, hay cười, lúc nào cũng có thể đem lại cho người khác nụ cười vì tính cách hài hước và chân thật. Bạn bè rất quý Lan và chắc hẳn trong lòng ai cũng ao ước bản thân mình có thể luôn vui vẻ như bạn ấy. Ô kìa,… hình như… trong ngăn bàn bạn ấy có cái gì đẹp thế nhỉ? Tôi cố rướn mình để ngắm nhìn cái vật nhỏ xinh đang lấp ló trong ngăn bàn Lan. Một quyển sổ nhỏ!

Tôi ngồi yên mà trong lòng chẳng thể nào xóa đi cảm giác tò mò. Quyển sổ ấy ghi gì nhỉ? Đấy có phải quyển sổ tay toán học mà Lan thường nói hay không? Tôi rời khỏi chỗ, nhìn xung quanh. Trong lớp chỉ có mình tôi, nếu tôi lấy quyển sổ ấy ra cũng chẳng ai biết. Mà Lan lại đang ở ngoài… Cái tình tò mò của tôi lại nổi lên, nhưng nếu xem trộm quyển sổ của người khác như thế là rất xấu… Tôi mông lung trong những suy nghĩ, cái quyển sổ nhỏ xinh kia cứ như đang trêu tức tôi. Cuối cùng, tôi đứng hẳn dậy, với lấy quyển sổ ấy và mở ra đọc. Không, đó không phải là sổ tay toán học, đó là nhật kí của Lan! Mồ hôi tôi bắt đầu túa ra đầy mặt. Tôi sững sờ trước những dòng chữ của Lan. Hóa ra nhà Lan lại nghèo và khó khăn đến thế. Hóa ra đằng sau gương mặt hay tươi cười kia lại là những lo toan cơm áo của một người chị cả khi bố mẹ luôn ốm đau, em thì còn nhỏ dại. Hóa ra mấy đứa chúng tôi chỉ nhìn thấy vẻ ngoài vui vẻ của Lan mà không biết rằng bạn ấy đã phải gồng gánh nhiều áp lực trên vai ấy thế nào…

“Tùng…tùng…tùng”. Hồi trống báo giờ ra chơi kết thúc kéo tôi trở lại hiện tại. Tôi vội vàng nhét quyển sổ ấy vào chỗ cũ rồi ngồi ngay ngắn lại vào chỗ của mình. Cả giờ hôm ấy tôi không thể nào tập trung được vì nỗi xấu hổ đang bao quanh. Một cảm giác tội lỗi trùm lên tâm trí của tôi. Trước giờ, tôi rất ghét ai động vào những gì riêng tư, vậy mà chính tôi lại mở quyển nhật kí của Lan ra đọc! Tôi chẳng hiểu nổi tại sao tôi lại làm như vậy nữa. Lan quay xuống làm cắt mạch suy nghĩ của tôi:

- Này, cậu làm sao thế, cả ngày nay cứ lơ đễnh thế là sao?

- À…. Không… không có gì đâu.

Mấy ngày qua đi, Lan vẫn tươi cười, vẫn pha trò như mọi ngày. Có lẽ bạn ấy không biết chuyện tôi đã lỡ xem nhật kí của bạn ấy, nhưng trong lòng tôi lúc nào cũng cảm thấy tội lỗi mỗi khi nhìn thấy Lan. Cho đến một ngày kia, lấy hết can đảm, tôi hẹn Lan ra một góc. Tôi quyết định sẽ xin lỗi Lan vì những gì mình đã làm…

- Cậu hẹn mình ra đây có chuyện gì thế? – Lan hỏi tôi.

- Mình… mình có chuyện…muốn nói… - Tôi ấp úng.

- Có chuyện gì cứ nói ra xem nào, trông cậu bây giờ đỏ hết mặt lên rồi kia kìa- Lan bật cười.

- Mình… Thật ra là… Tuần trước…Mĩnh lỡ xem trộm nhật kí cậu để trong ngăn bàn. Quyển sổ đẹp quá, mình không cố ý. Mình xin lỗi…

Lan chợt lặng yên. Tôi nhắm mắt và chờ đợi ở bạn ấy một trận cuồng phong. Lan sững sờ một hồi rồi nói:

- Vậy là cậu biết hết rồi ấy hả?

Tôi im lặng.

- Thật ra chẳng ai biết được hoàn cảnh nhà tớ cả. Nhưng không sao, cậu đã dung cảm nhận ra lỗi của mình là được rồi. Trước giờ tớ chỉ mong có người nào thấu hiểu cho tớ thôi. Kể ra trong cái rủi cũng có cái may đấy chứ.

- Vậy là cậu tha lỗi cho mình?

- Tất nhiên rồi.

Lòng tôi chợt reo vui. Lan đã tha lỗi cho tôi, và tôi đã thấu hiểu được hoàn cảnh khó khăn của bạn ấy. Tôi thiết nghĩ mình phải làm gì đó để có thể giúp đỡ được Lan. Từ đó, mỗi khi buồn, tôi thường tìm cách để giúp đỡ Lan. Chúng tôi thân nhau từ hồi đó…

Vậy đấy, đó là một kỉ niệm đáng nhớ trong quãng đời cấp 2 của tôi. Và tôi chợt nhận ra, điều quan trọng không phải bạn đã mắc lỗi lầm gì, mà là cách bạn đối mặt với nó và sửa chữa nó như thế nào. Những vấp ngã mà bạn gặp phải bây giờ hóa ra lại trở thành những kinh nghiệm quý báu giúp bạn ngày một trưởng thành hơn trên mỗi con đường bạn đi.

Kể về một lần trót xem trộm nhật kí của bạn – mẫu 2

Cuộc đời của mỗi con người chắc hẳn đã từng trải qua những kỉ niệm đáng nhớ. Đó có thể là những kỉ niệm vui, buồn nhưng đều in dấu trong kí ức. Và với em cũng vậy, đó là lần em trót xem trộm nhật kí của bạn. Kỉ niệm đó đã để lại cho em một bài học khó quên.

Em còn nhớ hôm đấy là một buổi chiều thứ bảy đẹp trời. Như thường lệ, em sang nhà Tú Anh để học bài cùng bạn. Tú Anh là người bạn thân của em từ khi chúng em mới bước vào lớp Một. Buổi học đầu tiên, vì còn lạ lẫm với mọi thứ nên em đã òa khóc nức nở khi thấy mẹ đi về. Khi ấy Tú Anh đã đến làm quen với em, động viên em rồi dẫn em vào chỗ trống cạnh bạn. Từ đó chúng em là đôi bạn gắn bó với nhau như hình với bóng, hai đứa thường sang nhà nhau để học bài, tâm sự những câu chuyện thầm kín. Gia cảnh nhà Tú Anh không được khá giả, mẹ bạn mất sớm, bố lại ốm yếu nên chỉ trông chờ vào cửa hàng tạp hóa nhỏ. Khó khăn là vậy nhưng Tú Anh học rất giỏi, ngoan ngoãn, hiếu thảo. Bạn đã đi làm thêm vài công việc nhỏ để có thể phụ giúp bố. Đó cũng là lý do làm em luôn yêu mến, khâm phục cô bạn nhỏ bé của mình.

Hôm đó, hai đứa đang cùng nhau giải bài tập thì bố bạn có việc nên đi ra ngoài. Tú Anh phải ra trông cửa hàng giúp bố, còn em thì ngồi lại ở phòng, làm nốt bài tập. Giải xong bài tập toán, em dừng tay và lấy quyển sách trên giá sách của Tú Anh để đọc, thì bất ngờ một quyển sổ nhỏ rơi xuống. Quyển sổ in hình Totoro, nhân vật hoạt hình mà bạn yêu thích và có khóa bằng số nên em đoán là sổ nhật kí. Em hơi ngạc nhiên và có chút không vui vì Tú Anh có điều giấu mình. Tuy vậy lúc đầu em vẫn có ý định đặt quyển sổ lại chỗ cũ vì nghĩ ai cũng có bí mật không thể chia sẻ, hơn nữa Tú Anh lại là bạn thân của em, em cần phải tôn trọng sự riêng tư của bạn ấy. Nhưng sự tò mò và lòng ích kỷ của bản thân lại xui khiến em làm việc sai trái. Em thầm nghĩ: “Mình sẽ thử mở xem sao. Nếu không được thì mình sẽ cất lại chỗ cũ, còn nếu được thì mình sẽ đọc một vài trang thôi. Dù sao thì bác đã nói là đi có việc hơi lâu một chút, nên Tú Anh chắc chưa vào phòng sớm như vậy đâu”. Nghĩ rồi, em bắt đầu thử mở khóa quyển sổ. Ban đầu em thử ngày sinh nhật của bạn, rồi đến ngày sinh nhật bố mẹ bạn, nhưng đều không được. “Có khi nào là ngày sinh của mình không nhỉ? Chắc không đâu, ngày sinh của bố mẹ bạn ấy còn không được cơ mà”. Nghĩ thế nhưng em vẫn cố thử. Và thật ngạc nhiên khi con số ngày sinh nhật của em lại đúng:

- Tú Anh thật là dễ thương quá đi – Em mỉm cười và lẩm bẩm một mình.

Em bắt đầu lật dở từng trang một. Em đã tự hứa với lòng là sẽ chỉ đọc một vài trang thôi, ấy vậy mà đôi bàn tay đáng trách kia cứ lật hết trang này đến trang nọ.

- Toàn là những câu chuyện ở lớp, ở trường và những câu chuyện bạn ấy đã kể với mình – Em thầm nghĩ.

Nhưng rồi bàn tay em bất giác dừng lại ở một bài viết cách đây đã năm tháng. Dòng trên cùng ghi ngày tháng như bao bài khác.

“30/01/2012

Hôm nay bố đã mua cho mình một chiếc xe đạp. Chiếc xe cũ thôi nhưng đối với mình nó quý giá biết chừng nào. Mình biết bố đã nói dối mình, bố đi ra ngoài nhưng thực chất là đi làm khuân vác. Công việc vất vả lắm nên mỗi lần về nhà, mặt mũi bố lại tái nhợt. Thỉnh thoảng, căn bệnh tái phát khiến bố đau bụng liên hồi. Mỗi lúc như vậy, mình thương bố lắm. Mình định nói cho bố là chuyện bố đi làm mình đã biết. Nhưng mình vẫn chưa đủ can đảm, hơn nữa, nói ra mình sợ bố buồn. Chiếc xe đạp bố mua cho mình có lẽ là tháng lương đầu tiên bố nhận được. Bố sợ đứa con gái nhỏ bé của bố thua kém các bạn nên bố luôn bù đắp cho mình bằng tất cả những gì bố có. Nhưng bố ơi, bố là báu vật trên đời của con. Con không cần điều gì cả, chỉ cần bố luôn bên cạnh con, để con có thể yêu thương và báo hiếu bố, thế là đủ rồi”

Em thấy cay cay nơi sống mũi rồi nước mắt bất giác lăn dài trên hai gò má. Em thấy thương Tú Anh biết bao nhiêu và vô cùng cảm động trước tình yêu thương của bạn dành cho bố. Tú Anh không may mắn như mọi người, nhưng lúc nào bạn cũng luôn lạc quan, vui vẻ. Chơi với nhau chín năm trời, vậy mà em đã vô tâm, không nghĩ bạn là một người sâu sắc như vậy. Đáng lẽ, em nên bên cạnh bạn nhiều hơn, chia sẻ với bạn nhiều hơn. Em còn thấy xấu hổ chính bản thân mình khi sống trong một gia đình khá giả mà không biết phấn đấu, chỉ đòi hỏi bố mẹ phải chiều theo sở thích của mình. Em đã nằng nặc đòi bố mua cho chiếc xe đạp để có thể đi chơi với bạn bè mà không nghĩ rằng bố đã làm việc vất vả bởi đồng tiền không dễ dàng kiếm ra được.

Em lại giở tiếp những trang tiếp theo

“12/02/2012

Hôm nay mình đã nhận được tháng lương đầu tiên và mình đã mua cho bố một chiếc áo mới. Bố vui lắm nhưng trong nụ cười vẫn có nước mắt. Bố ôm mình nghẹn ngào nói: “Bố cảm ơn con gái bố nhiều lắm và bố cũng muốn xin lỗi con vì không cho con được đầy đủ những thứ con muốn”. Mình đã nói với bố những điều mình suy nghĩ hôm trước và cả việc mình đã biết bố giấu mình đi làm. Bố đã hứa sẽ không đi nữa và sẽ luôn ở bên đứa con gái nhỏ bé của mình. Hôm nay quả thật là một ngày vui”

Càng đọc em càng cảm động trước câu chuyện của hai bố con Tú Anh bao nhiêu, em càng cảm thấy có lỗi với bố mình bấy nhiêu. Em cứ khóc và nghĩ đến những ngày tháng đã làm cho bố buồn lòng. Thế rồi, Tú Anh đi vào phòng, em chạy vội đến bên bạn, gục đầu vào vai bạn mà khóc.

- Mình xin lỗi, cho mình xin lỗi.

Nhìn thấy quyển sổ đang mở trên bàn, có lẽ bạn đã hiểu được phần nào:

- Thôi không sao, cậu đừng khóc nữa.

- Mình thấy thật xấu hổ. Càng nghĩ đến cậu, mình càng thấy hối hận vì những gì mình làm. Mình thấy thương bố mình quá, và thương cả cậu nữa.

Tú Anh nhẹ nhàng mỉm cười;

- Nếu cậu làm sai điều gì thì nên chuộc lại lỗi lầm, khóc như vậy đâu phải là cô gái mạnh mẽ mà mình biết. Đúng không nào?

Em lau nước mắt rồi cầm lấy bàn tay nhỏ bé của Tú Anh:

- Cậu là người bạn tốt, cậu đã giúp mình hiểu ra được nhiều bài học đáng quý trong cuộc sống. Cậu có hứa là sẽ làm bạn mình mãi mãi không?

- Mình hứa.

Câu chuyện đã qua đi từ lâu. Dù bây giờ học tập ở hai ngôi trường khác nhau nhưng chúng em vẫn thường xuyên liên lạc, trao đổi. Kỉ niệm đọc trộm nhật kí năm nào mãi mãi không bao giờ phai trong tâm trí em, vì nó giúp em nhận ra được nhiều giá trị đáng quý trong cuộc sống.

Tưởng tượng 20 năm sau về thăm trường cũ - Mẫu 1

Đối với mỗi người chắc hẳn có những thứ vô cùng thiêng liêng, quý giá mà không có gì có thể thay thế được. Và với tôi cũng thế, hai tiếng “ngôi trường” mỗi khi nhắc đến là lại làm tôi nhớ về ngôi trường cấp hai thân yêu ngày nào. Nơi đây đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi, dạy tôi biết yêu thương, biết sẻ chia. Hôm nay cũng là một dịp đặc biệt ngày nhà giáo Việt Nam tôi có cơ hội được về trường thăm lại thầy cô giáo năm xưa sau hai mươi năm xa cách. Giờ đây trong lòng tôi lại trào lên cảm xúc lâng lâng khó tả.

Vừa về đến nhà, tôi đi xe dạo quanh con xóm nhỏ để ngắm nhìn quê hương mình xem có gì thay đổi nhiều không nhưng không hiểu tại sao tôi lại dừng chân trước cổng trường cấp hai năm xưa, ngôi trường mà tôi đã gắn bó trong suốt bốn năm trời với bao kỉ niệm vui buồn thời học sinh. Trước mắt tôi là một ngôi trường khang trang rộng lớn. Cánh cổng trường được thay bằng cánh cổng đẹp hơn, to hơn và sơn màu rất sang trọng. Trên cánh cổng ấy là chiếc biển màu xanh với dòng chữ màu đỏ “TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ LƯƠNG THẾ VINH” rất nổi bật. Bước qua cánh cổng trường là một thế giới hoàn toàn khác so với trước đây. Đó là một ngôi trường khang trang, rộng lớn với ba dãy nhà ba tầng được xây theo hình chữ U với rất nhiều các phòng học, phòng chức năng. Sân trường rộng lớn được trồng nhiều cây và bồn hoa. Đứng giữa khung cảnh nơi đây làm tôi có cảm giác rất gần gũi, có thể hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên nơi đây. Trên các cây cao còn có những con chim làm tổ nên dễ dàng có thể nghe thấy tiếng chim hót bất cứ lúc nào. Sân trường còn có một sân cỏ rộng để các bạn nam có thể chơi đá bóng sau mỗi giờ học. Vì hôm nay là ngày 20-11 nên không khí trường vô cùng sôi nổi, có những lớp đang thi văn nghệ, có những lớp lại đang thi thể thao nên nó làm tôi như sống lại những phút giây khi mình còn là học sinh của trường. Sải bước trên sân trường, ngắm nhìn khung cảnh xung quanh nơi đây mà tôi không kìm được lòng mình. Chính tại sân trường này tôi đã cùng bạn bè mình chơi đùa sau những giờ học căng thẳng- thật vui biết bao.

Tôi bước đến dãy nhà nơi lớp tôi đã từng học ở đó. Vẫn là lớp 9A như ngày nào nhưng giờ đây đã được sửa sang lại, được trang bị thêm những trang thiết bị cần thiết phục vụ cho học tập của các em học sinh.Nhìn vào trong lớp, nhìn vào chỗ mà tôi đã từng ngồi. Ôi bao nhiêu kỉ niệm về trường, về lớp, về bạn bè thầy cô trong tôi ùa về. Nhớ khi xưa lũ học trò tinh nghịch chúng tôi thường lén lút mang đồ ăn vặt vào trong lớp để ăn bất chấp sự nghiêm cấm của nhà trường. Nhưng nếu là học sinh mà không cảm nhận một lần việc ăn vặt trong giờ thì thật là đáng tiếc. Và tôi nhớ có một lần khi trường lẫn còn là những dãy nhà cấp bốn lợp ngói lâu năm đã có nhiều chỗ thủng. Mỗi độ trời mưa to là chúng tôi có cảm giác được chứng kiến cảnh những giọt mưa rơi xuống lớp học, ướt hết cả sách vở. Nhưng không vì thế mà chúng tôi bỏ cuộc bởi chúng tôi hiểu được giá trị thực sự của học tập trong cuộc sống này. Thế là những lúc như thế cô trò chỉ nhìn nhau cười rồi lại tiếp tục bài học còn đang dang dở. Nghĩ lại mà thấy thời học sinh của mình vừa vui mà vừa buồn nhưng nó sẽ gắn bó với chúng tôi suốt cuộc đời này. Ngôi trường thân yêu ấy đã giúp tôi trở thành một con người biết suy nghĩ, biết cảm nhận mọi thứ xung quanh.

Hướng tầm mắt ra xa thì tôi lại bắt gặp hình ảnh rất đỗi quen thuộc. À đó là cô Yến- cô giáo chủ nhiệm của tôi hồi lớp chín. Tiến lại gần chào cô mà tôi nhận ra cô đã xuất hiện nhiều vết chân chim hơn, có nhiều nếp nhăn hơn mà tôi thấy mình có lỗi quá vì bấy lâu nay vì bận công việc mà tôi không thu xếp thời gian để về thăm cô. Cô nhìn tôi một hồi lâu rồi mới nhận ra bởi đã hai mươi năm rồi còn gì- một khoảng thời gian đủ dài để mọi thứ thay đổi. Tôi cùng cô ôn lại những kỉ niệm năm xưa, chia sẻ cho cô nghe những gì tôi đã làm được và cô cũng rất vui khi thấy học trò của mình trưởng thành và thành đạt. Không khí ngày hôm ấy thật khác lạ có một cái gì đó khó diễn tả thành lời. Và cuối cùng bừng lên giai điệu của bài hát ‘ Nhớ ơn thầy cô’ mà trong lòng tôi cũng thầm nghĩ: “Cảm ơn thầy cô, cảm ơn mái trường thân yêu này.”

Một ngày trôi qua thật nhanh, cuộc chia tay lại bắt đầu mà tôi thì lại không muốn điều đó xảy ra một chút nào. Ngôi trường cấp hai thân yêu ấy sẽ mãi trong lòng tôi ,nó giống như một bảo vật quý giá trong tôi mà tôi sẽ không bao giờ quên. Và còn bạn, ngôi trường của bạn sau hai mươi năm sẽ như thế nào?

Tưởng tượng 20 năm sau về thăm trường cũ - Mẫu 2

“Thời gian trôi qua nhanh chỉ còn lại những kỉ niệm". Quá khứ vẫn mãi chỉ là quá khứ và mỗi lần nhắc đến quá khứ thường cảm thấy tiếc nuối và bao kỉ niệm ùa về trong ta. Mới đây thôi mà cũng đã 20 năm hôm nay tôi trở về thăm trường – ngôi nhà thứ hai của mình nhân dịp lễ kỉ niệm 50 năm thành lập trường.

Hôm đó là một buổi sáng đẹp trời, bầu trời trong xanh , cao vời vợi, tôi trở về trường trong cảm xúc rạo rực , phấn khởi,bồi hồi, xốn xang. Ngôi trường thấp thoáng dưới những bóng cây xanh nhưng dưới ánh nắng mặt trời thì ngôi trường càng trở nên rực rỡ hơn. Sau 20 năm xa cách thì mọi thứ đã dần thay đổi từ những dãy nhà ngói màu đỏ thì giờ đã được tu sửa thành những dãy nhà cao tầng màu vàng khang trang ,sạch đẹp. Chiếc cổng được lát nền đá hoa sáng bóng đang dang tay chào đón mọi người . Không giống như mọi ngày , hôm nay là một ngày rất quan trọng nên mọi người đều đến từ rất sớm để chuẩn bị cho ngày lễ. Bước vào cổng trường , tôi bắt gặp bao nhiêu những cựu học sinh hôm nay cũng về thăm trường với những lẵng hoa tươi thắm để mừng cho ngày lễ trọng đại này. Không ai nói ra nhưng tôi thấy được sự thành đạt của họ và dường như họ cũng có trách nhiệm trở về trường bởi nơi đây đã vun đắp và thắp sáng cho chúng ta bao ước mơ để có được như ngày hôm nay. Tôi cùng lớp học cũ đang lang thang dạo bước trên sân trường để ngắm từng lớp học và cảnh quan của trường thì từng đằng xa bỗng nghe thấy tiếng gọi thân mật trìu mến:” 9B ơi…”. Chúng tôi ngơ ngác nhìn xung quanh chưa biết là ai, thì bỗng cô lại gần và vỗ vai tôi. À, thì ra là cô giáo chủ nhiệm của tôi , hôm nay cô thướt trong tà áo dài màu hồng trông cô thật trẻ trung, xinh xắn. Chúng tôi xúm lại ôm chầm lấy cô và cô trò cùng hàn huyên tâm sự. Cô nhắc lại bao nhiêu kỉ niệm với chúng tôi gắn với thời :” Nhất quỷ nhì ma, thứ a học trò”, nhưng cô không hề trách mắng, mà cô vừa nói vừa cười tôi có cảm giác như cô cũng đang rất mừng cho sự trưởng thành của từng thế hệ học sinh.Chúng tôi cùng cô lên thăm lớp học cũ của mình đứa nào đứa nấy đều nhanh chóng nhớ vị trí ngồi cũ của mình trước kia và trong tôi chợt vẳng lại giọng nói vừa nghiêm nghị vừa gần gũi, yêu thương. Giọng cô nhỏ và trong, những bài cô giảng, những câu chuyện thần tiên bao giờ cũng hấp dẫn hơn rất nhiều. Cho đến hôm nay tôi cũng vẫn còn nhớ như in câu chuyện cô kể về một thời hoa đỏ cho chúng tôi nghe.

Rồi chúng tôi cùng nhau xuống dự buổi lễ thành lập trường. Nhìn lại 50 năm với bề dày lịch sử, những thành tích cao mà trường đã đạt được , chúng ta có quyền tự hào về các thế hệ, cán bộ giáo viên của nhà trường luôn có ý thức tự giác, tích cực học hỏi, là những thầy cô say chuyên môn, có trình độ tay nghề cao, giàu lòng yêu nghề, mến trẻ. Học sinh có truyền thống chăm ngoan , học giỏi,không ngừng tu dưỡng rèn luyện đạo đức, tích cực học tập đỗ đầu vào các trường cấp ba đứng đầu của Tỉnh.Kết thúc buổi lễ, chúng tôi cùng nhau ăn liên hoan rồi lại nhớ lại buổi liên hoan chia tay cuối cấp , cùng nhau viết những dòng lưu bút đầy cảm động và cả lớp cùng nhau viết cho cô một quyển sổ nhật kí để lưu lại những kỉ niệm của cô trò trong những tháng ngày đã qua.

Một ngày đầy ý nghĩa đã trôi qua tôi trở về nhà trong lòng đầy nhớ nhung , tất cả sẽ mãi là hành trang dõi theo tôi từng bước để tôi ngày một cố gắng.Mỗi chúng ta giờ đây đều đã khôn lớn trưởng thành, giờ đây những ước mơ của thời học sinh cũng đã trở thành hiện thực đã được chắp cánh bay xa, chỉ còn lại ngôi trường vẫn hiên ngang đứng đó lưu giữ những kí ức của tuổi thanh xuân bồng bột, trong sáng.

Cuộc vui nào cũng có ngày chia tay. Ngày trở về trường sau 20 năm xa cách giờ đây cũng đã trở thành quá khứ nhưng chúng ta luôn nghĩ rằng quá khứ sẽ luôn tươi đẹp , hãy giữ gìn nó, hãy để ngôi trường là một phần kí ức trong tâm hồn” Ngoài sân phượng rơi hồng trang kỉ niệm. Chợt nhớ về những ngày xưa đã qua. Và hôm nay chúng ta đã quay trở về…”

Tài liệu có 10 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống