TOP 27 bài Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 10 2.5 K 3

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc hay nhất, gồm 10 trang trong đó có sơ đồ tư duy, dàn ý phân tích chi tiết và 27 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

SỐ PHẬN VÀ TÍNH CÁCH CỦA NHÂN VẬT LÃO HẠC TRONG TRUYỆN NGẮN LÃO HẠC

Bài giảng: Lão hạc

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 1

Nam Cao là một trong những cây viết xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán 1930 -1945. Những tác phẩm của ông đều chất chứa tình yêu thương đồng cảm sâu sắc trước những mảnh đời những số phận bất hạnh bị xã hội dồn đẩy đến bước đường cùng.  Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến Lão Hạc. Nhân vật Lão Hạc chính là đại diện cho những người dân lao động khốn khổ bị xã hội vùi dập đến bức đường cùng song không vì thế mà mất đi những phẩm chất lương tri cao đẹp.

Hầu hết các tuyến nhân vật Nam Cao xây dựng đều có đặc điểm chung là tầng lớp nhân dân lao động thấp cổ bé họng. Bị dồn đẩy bởi hoàn cảnh nghèo đói đến mức phải tìm đến cái chết. Như Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa sự lương thiện bởi định kiến của người đời, nhân vật chị Dậu bước ra ngoài đêm đen như cái tiền đồ của chị, hay Lão Hạc chết bởi bả chó…. Thế nhưng điều khác biệt ở đây đó là nhân vật lão Hạc một người nông dân lương thiện, một đại diện tiêu biểu cho nhân cách cao thượng mà thanh tao cái chết của lão để lại cho độc giả nhiều trăn trở suy ngẫm. Cuộc đời lão là bi kịch nối dài bởi bi kịch. Lão góa vợ từ lúc còn trẻ, một mình cảnh gà trống nuôi con. Với lão đứa con vừa là để gửi gắm tinh thần vừa là điểm tựa duy nhất trong cuộc đời. Thế nhưng vì nhà nghèo không đủ tiền cưới vợ con lão phẫn chí bỏ nhà đi đồn điền cao su. Thế là từ đấy một mình lão sống cảnh côi cút lủi thủi với con chó tên Vàng – kỉ vật duy nhất con trai lão để lại. Nghe cái tên đã thấy con chó có ý nghĩa như thế nào với lão rồi. Nó không chỉ là kỉ vật do con trai lão để lại mà nó còn là người bầu bạn tâm tình bên lão. Thế nhưng dường như cuộc đời vẫn chưa ngừng bạc đãi lão.

Năm ấy lão bị ốm nặng. Biết bao nhiêu việc trong làng đàn bà tranh nhau làm hết. Một người ốm yếu như lão lại càng khó tìm được công việc. Lão sống lủi thủi với củ ráy, sung luộc, con ốc, con chai cho qua ngày. Thế nhưng dường như nỗi niềm của người cha vẫn không thôi đau đáu nhớ về con. Sự đau đớn, nhớ nhung chờ đợi cùng với căn bệnh dai dẳng đã bóp nghẹt trái tim khắc khoải của người cha già. Sau trận ốm lão yếu đi hẳn. Chưa dừng lại ở đây thiên tai đi qua mùa màng bị quét sạch lão rơi vào cảnh khốn cùng. Thế nhưng sâu thẳm trong tâm trí người cha chưa bao giờ nghĩ đến cảnh bán mảnh vườn. Vì lão tính rồi dù lão có chết cũng muốn để lại cho đứa con trai ít vốn làm ăn. Cả đời lão để chẳng lo nổi vợ cho con rồi lão không muốn ăn hết cả tiền vốn cho nó nữa. Trong lúc thất bát đó lão thốt lên câu chua xót với ông giáo Thứ : “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?” Câu nói của lão như lưỡi dao xoáy sâu vào tâm trí của người đọc cũng đồng thời là tiếng nói của những giai tầng lao động cực khổ, khốn cùng.

Top 15 bài Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc 2022 hay nhất (ảnh 1)

Lão chọn kết thúc cuộc đời bằng bả chó xin được của Binh Tư. Thế nhưng trước lúc chế lão còn gửi gắm được cho con trai 3 sào vườn và 30 đồng bạc. Đó chính là số vốn chắt chiu đổi bằng máu nước mắt thậm chí cả tính mạng của người cha già khốn khổ cho đứa con duy nhất của mình. Tuy sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất song lão Hạc lại là người sống vô cùng tình cảm. Đó là tình yêu thương khắc khoải mong mỏi con trai, và tình yêu thương vô bờ bến đối với cậu Vàng – con chó bầu bạn bên lão. Lúc phải đứng trước sự lựa chọn là cậu Vàng hay số vốn ít ỏi cho con trai lão đau đớn đành bán đi cậu Vàng. Có ai biết rằng khi đưa ra quyết định khó khăn đó lão đã vật vã đau khổ đến nhường nào. Lão gục xuống khuôn mặt méo mó đến cùng cực. Lão thấy bản thân mình thật là xấu xa, hèn mọn và xấu hổ. Lão đã đánh lừa cả một con chó. Việc bán cậu Vàng đi cũng là một cách lão dọn sẵn đường đi cho cuộc đời mình. Vì lão biết nếu tiếp tục nuôi Vàng thì lão cũng không thể cho nó được nổi miếng ăn. Đọc đến đây ta mới thấy đau đớn biết nhường nào trước tính lương thiện trong con người lão Hạc.Trước lúc ra đi lão đã nhịn ăn để lấy tiền làm ma bởi lão không muốn phiền lụy hàng xóm không muốn họ khổ thêm vì mình nữa. Có thể nói giữa một xã hội đầy rối ren như thế nhân cách của Lão Hạc chính là một điểm sáng mà rất nhiều người đáng phải học tập. Sự ra đi của lão không phải là một cái kết bế tắc mà nó mở ra một hướng đi mới một lối thoát mới cho số phận những kiếp người bèo bọt trong xã hội bất giờ.

Lão Hạc chính là một trong những tác phẩm hay nhất viết về số phận người dân khốn khổ trong xã hội cũ. Nó như một nốt nhạc ngân vang mãi trong tâm hồn người đọc. Một câu chuyện buồn về tình người, về nhân cách làm người khiến triệu người cảm động. Thế mới hiểu rằng con người ta dù trong hoàn cảnh nào cũng không thể đánh mất đi nhân cách vì nó chính là thứ quý giá nhất trong cuộc đời.

Sơ đồ tư duy

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc hay nhất ( 4 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Truyện ngắn "Lão Hạc" là một trong những tác phấm tiêu biểu thể hiện sự chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

- Nhân vật Lão Hạc đã để lại ấn tượng sâu sắc về một người nông dân hiền lành, chất phác, giàu lòng nhân ái, tự trọng đáng kính.

2. Thân bài:

a) Cuộc đời – cảnh ngộ của Lão Hạc: Người nông dân nghèo khó, gặp nhiều bất hạnh:

- Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.

- Sống cô đơn trong tuổi già, đối diện với nhiều rủi ro: ốm nặng, yếu, không có việc, hoa màu bị bão phá sạch.

- Chỉ có con chó vàng làm bầu bạn nhưng phải bán đi vì cảnh nghèo.

- Luôn canh cánh thương con, vì chưa lo được cho con trọn vẹn.

- Đến khi bước vào đường cùng phải tìm đến cái chết thương tâm.

b) Phẩm chất, nhân cách của Lão Hạc:

- Giàu lòng nhân ái, có tấm lòng vị tha, nhân hậu

- Là người cha vô cùng thương con, lo lắng cho con

- Giàu lòng tự trọng.

c) Cái chết của Lão Hạc: Là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách điển hình:

- Chết để tự giải thoát kiếp sống mòn.

- Chết vì quá thương con, muốn giữ trọn vốn liếng cho con, giữ tiếng cho con.

- Chết để tránh bị đẩy vào con đường tha hóa, biến chất.

- Cái chết như một sự hi sinh tàn khốc vì tương lai, nó chứng tỏ sự bế tắc của hiện tại.

- Minh chứng cho tấm lòng lương thiện.

- Minh chứng cho nỗi bất hạnh và phẩm giá của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

d) Suy nghĩ, đánh giá về nhân vật:

- Thương xót một con người bất hạnh.

- Trân trọng lòng tự trọng đáng quý.

- Yêu quý một con người giàu lòng nhân ái, yêu thương con.

3. Kết bài:

- Nam Cao đã xây dựng thành công hình tương người nông dân trước cách mạng tháng Tám thông qua nhân vật Lão hạc.

- Rút ra bài học: con người ta dù trong hoàn cảnh nào cũng không thể đánh mất đi nhân cách

Top 15 bài Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc 2022 hay nhất (ảnh 2)

Các bài mẫu khác

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 2

Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến “Lão Hạc”. Tác phẩm này được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kì 1930 - 1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã khắc hoạ vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Goá vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trông nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con.

Cảnh khốn khó về vật chất hoà trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi, lão ôm nặng. Sau trận ôm đó lão yếu đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hoá hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc... Những thứ ấy cũng chẳng dễ gì kiêm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tử tự. Lão chết đau đớn thê thảm “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đau thương. Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nồi xót xa đối với con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc từng hỏi ông giáo: “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?”. Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người. Lão Hạc sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm. Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đáng trốn đi làm đồn điền cao su, trái tim người cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông: “Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ”. Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp cuả người cha. Thương nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu vàng - kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật - một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó - người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó. Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh lão Hạc “miệng méo xệch, khóc hu hu” khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả.

Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy... Cuộc đời lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khôn khó, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gi hơn lão, càng không cho phép lão phiền luỵ đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết nhường nào... Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hoá biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: “Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vôn không ưa gì lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá.” Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão Hạc không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lí “ thác trong hơn sống đục” của nhân dân ta.

Như vậy, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sông thì âm thầm nghèo đói cô đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thông thiết.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 3

Các tác phẩm về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám đã lên án gay gắt xã hội thối nát thời xưa, một xã hội điêu tàn, bất lương, luôn luôn dồn ép những người dân vô tội vào cảnh bần cùng khốn khổ. Đồng thời, các câu chuyện cũng ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của họ. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một trong những tác phẩm thành công nhất của đề tài này.

Video bài văn mẫu Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc

Ngay từ nhan đề của truyện đã giúp ta biết rằng nhân vật chính của câu chuyện là một ông cụ. Sự thực đã là như vậy, câu chuyện là cuộc đời của một cụ già vô cùng khắc khổ. Lão khắc khổ từ hình dáng đến số phận của mình. Đó là một ông lão già nua, bất hạnh vì cô đơn, bệnh tật lại luôn bị sự đói nghèo dằn vặt. Vợ chết sớm, lão phải lâm vào cảnh gà trống nuôi con một thân một mình nhưng khốn thay, con trai lão do không chịu nổi sự khổ cực bần hàn, sự lạnh lùng, đen bạc đã xin đi phu đồn điền cao su. Vậy là vợ con đã đều rời xa lão, lão chỉ còn biết bầu bạn với con chó vàng. Lão coi nó như là một đứa con, đứa cháu, một người thân của mình để chia sẻ từng miếng cơm, manh áo của mình cho nó, ngày ngày bầu bạn, tâm sự với nó. Nhưng, cuộc sống dồn đẩy đến tận cùng, lão ốm nằm liệt giường, không làm được việc gì, phải ăn bòn vào tiền vườn vẫn để dành cho con. Tiếp sau, làng bị “mất nghề vé sợi” công ăn việc làm cũng hiếm hoi hơn. Lựa chọn duy nhất giờ đây là phải bán con chó đi vì một miệng ăn cũng đã không lo đủ rồi huống chi còn nuôi thêm một con chó – “ốc còn không mang nổi mình ốc thì làm sao vác cọc cho rêu” được ! Cái chi tiết lão bán con chó đi làm người đọc như chúng ta không thể không đau lòng. Hôm bán xong con vàng, lão sang nhà ông giáo để bộc lộ. Lão cố làm ra vẻ bình thường nhưng không thể giấu được nỗi đau trong lòng : “trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước…”. Nỗi đau làm biến dạng khuôn mặt của con người già nua đầy đau khổ đó : “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Hình ảnh đó càng làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của lão Hạc, đó là tính lương thiện và lòng thương con vô bờ bến. Lão bán con chó để không dùng vào tiền vườn, tiền để dành cho con về cưới vợ. Tình cha con sâu sắc của người nông dân già cả, nghèo khó khiến người đọc không khỏi cảm động và yêu mến.

Lão còn nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn để mai sau người con trở về có nhà để ở, có vườn và ruộng để mà làm ăn bằng một văn tự mua bán hẳn hoi. Thậm chí để lo hậu sự mai sau cho mình lão cũng rất chu tất, chả phiền lụy, nhờ vả, vay mượn ai cả. Hình như theo lão có để lại cho con thì chỉ để tài sản chứ không để lại nợ nần. Tin tưởng trao gửi cả một “tài sản” lớn đối với lão cũng như đối với đời sống kinh tế lúc bấy giờ, mà không chút nghi ngờ, băn khoăn phải chăng bắt nguồn từ tấm lòng đầy nhân hậu, vị tha của nhân vật. Từ đó, ta thấy được ẩn sâu trong những con người đầy nghèo khổ và buồn đau này một tấm chân tình cảm động xiết bao. Cái kết của câu chuyện mới là cái đáng nói nhất trong tác phẩm Lão Hạc này. Cuối cùng thì lão Hạc cũng chết. Đây không phải là một cái chết bình thường mà là cái chết đau đớn của một con chó : “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên.”. Đọc đến đây tôi thấy rất sợ, không sợ vì cảnh vật vã rồi chết, mà vì tính chất thâm độc của chế độ thực dân phong kiến xưa kia. Tôi thường nghĩ, phải chăng Nam Cao quá lạnh lùng, vì tác phẩm nào của ông cũng toàn chết chóc, đau thương, các nhân vật đều kết thúc bằng cái chết. Sự thực ngòi bút của ông dù có thương nhân vật đến đâu cũng không thoát khỏi cái quy luật mà xã hội cũ quá ư tàn nhẫn gây ra cho những người dân vô tội. Nó chỉ cho lão Hạc có hai cách sống : Thứ nhất là lão sẽ phải tiêu lẹm vào tiền vườn của con, điều đó đời nào lão chịu. Thứ hai là lão sẽ phải làm những việc bất lương như Binh Tư thì lão lại càng không làm nổi. Con người mà đau khổ không giảm được nhân cách, đã khóc một cách cay đắng vì trót lừa một con chó thì làm sao có thể làm hại ai được ! Nam Cao đã linh hoạt và khéo léo lồng ghép các chi tiết để cuối cùng sự lựa chọn duy nhất của lão Hạc là cái chết. Chính vì chi tiết này mà truyện ngắn Lão Hạc đã lên án gay gắt xã hội cũ loạn lạc, mục ruỗng. Nó sẵn sàng xô đẩy ông lão nghèo khổ đó chọn cái chết như là giải pháp duy nhất để lão Hạc thoát khỏi cuộc sống đoạ đày đau khổ mà vẫn giữ nguyên được tấm lòng lương thiện của mình.

Qua truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta đã biết thêm được về số phận, cảnh đời của những người nông dân trong xã hội xưa nói chung và lão Hạc nói riêng. Lão Hạc chính là hiện thân cho một nhân cách cao đẹp trong cái bóng đêm bao trùm lên những người dân vô tội khốn khổ khi xưa.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 4

Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 là nơi hội tụ của nhiều cây bút văn xuôi xuất sắc. Mỗi người một đề tài, một phong cách sáng tác riêng song đều tập trung phản ánh tính cách và số phận của nhiều tầng lớp người dân thời kì đó. Khi nhân dân ta rơi vào cảnh nước mất, nhà tan, bản thân là kiếp nô lệ thì cuộc sống không thể khác là sự đọa đày và khổ đau. Điều đó đã được thể hiện sâu sắc qua truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.

Trước hết ông là một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh, vì nghèo đói nhưng rất chất phác đôn hậu và giàu lòng yêu thương con. Trong cảnh làng mất nghề, người nghèo khắp nơi thì những người già nghèo như lão Hạc là khổ hơn cả. Lão sức yếu mà không có người đỡ đần, chăm sóc khi tuổi già. Đau khổ hơn cho lão Hạc là người con trai đi bặt vô âm tín mấy năm liền. Bản thân lão ốm yếu luôn mà không có tiền chữa bệnh, lão Hạc sống nốt những năm cuối đời trong cảnh cô đơn. Mòn mỏi về bệnh tật và chờ đợi đứa con ngày cũng như đêm, đó là nỗi bất hạnh và khổ tâm rất lớn của lão Hạc. Cô đơn về tinh thần, về vật chất lão Hạc cũng chẳng sung sướng gì. Đói khổ, bàn đầu lão Hạc còn ăn củ khoai, củ sắn, sau thì ăn thức ăn tự tạo lấy : “Hôm thì ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, củ khoai hay bữa trai, bữa ốc”. Lão đã quỵ ngã vì bệnh tật, vì nhớ mong khắc khoải. Tuổi lão đã cao, lại thêm sự lo toan cho cuộc sống, thời gian cứ đánh gục dần lão. Chính cái chế độ thực dân phong kiến ấy đã bần cùng hoá lão, dồn lão đến trước con đường của Binh Tự : con đường bất lương, trộm cắp, đánh bả chó. Mặc dù đã bị dồn đến bức tường cuối cùng ấy nhưng lão Hạc vẫn không chịu cúi đầu chui qua cái lỗ nhỏ mà số phận chỉ cho, lão không chịu bán đi hai chữ “lương thiện” mà chấp nhận kết thúc cuộc đời, kết thúc một kiếp người như kiếp chó của mình. Cái chết của lão Hạc thảm thương quá : Lão “vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc.”. Như vậy đấy, cuộc đời người nông dân trước Cách mạng khổ từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết, mà hình ảnh điển hình là lão Hạc đã được đưa vào văn học.

Mặc dù đời sống bị bần cùng hoá đến cùng cực như vậy nhưng lão Hạc vẫn không mất đi những phẩm chất vốn có của người nông dân Việt Nam. Từ lời nói đến việc làm, suy nghĩ của lão Hạc đều toát lên vẻ thật thà, chất phác. Lão nói với ông giáo : “Tôi cắn rơm, cắn cỏ lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì cho tôi gửi.”. Nghe lão nói thật hiền từ mà chất phát quá ! Nhỡ sang tên cho ông giáo rồi, ông ta nghèo quá mà bán đì thì sao? Ấy là cái tính của người nông dân “chọn mặt gửi vàng”, tin tưởng vào những người có học. Cao hơn cả chất phác, lão Hạc là người có tấm lòng đôn hậu. Ông lão rất thương con, nhất định không dùng đến tiền bán vườn của con. Yêu con nên thấy con không cưới được vợ, lão Hạc rất đau khổ. Sống cô đơn, nghèo khổ, nhưng ngày cũng như đêm, lão đều nghĩ, đều thương đến con. Vì thương con và bất lực trước cuộc sống, lão mới kết thúc cuộc đời để khỏi xâm phạm đến mảnh vườn của con. Tình yêu con của lão cũng thể hiện ở sự thương yêu, trân trọng kỉ vật của con để lại : một con chó “lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”.

Cuộc đời lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực. Sống thì âm thầm, nghèo đói cô đơn ; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng,… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với bao nhiêu trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 5

Xuôi dòng văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930 - 1945, nếu nói Ngô Tất Tố là cây cổ thụ khai sáng cho thể loại này thì Nam Cao lại chính là người đưa chúng đến đỉnh cao nghệ thuật. Để làm nên sự thành công của Nam Cao, phải kể đến tác phẩm “Lão Hạc” đã khắc họa xuất sắc hình tượng người nông dân với số phận bất hạnh nhưng vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp.

Những năm nửa đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cơ bản hoàn thành xong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam có nhiều biến động, chia thành nhiều giai cấp mà trong đó, khổ cực nhất vẫn là người nông dân. Cuộc sống làng quê bị bao trùm bởi cái đói, miếng ăn và nước mắt. Khi ấy, giữa những tiếng khóc oan trái “kêu trời không thấu” ấy, Nam Cao đã cất ngòi bút, nói hộ nỗi lòng và tình cảm biết bao nhiêu người dân bấy giờ. Tác phẩm “Lão Hạc” ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhân vật lão Hạc được nhìn nhận và miêu tả qua cái nhìn và tấm lòng của nhân vật ông giáo.

Trước hết, lão Hạc hiện lên với số phận bi đát, cuộc đời bất hạnh. Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị bủa vây bởi trong sự nghèo đói. Không có ruộng cày, toàn bộ gia tài của lão chỉ có con chó và một mảnh vườn. Nhưng mảnh vườn ấy cũng còm cõi, xơ xác, hoa màu chỉ đủ cho lão bòn mót. Cho nên lão phải làm thuê, làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng. Rồi sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Sau một trận ốm kéo dài hai tháng mười tám ngày, “lão yếu đi ghê lắm, tiền bấy lâu nay dành dụm đều cạn kiệt, lão lại không có việc làm. Rồi bão đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn, giá gạo thì cứ đẩy cao mãi lên. Cái đói, cái nghèo cứ đeo đẳng, để đến một lúc lão cũng phải thốt lên: “Cái kiếp chỉ nhỉnh hơn kiếp một con chó”.

Đã nghèo, cuộc sống của lão Hạc còn bị bủa vây bởi số phận bất hạnh. Vợ mất sớm, lão một mình gà trống nuôi con. Nhưng sợi dây tình cảm ấy cũng không giữ được mãi. Chính cái nghèo đã khiến lão bó tay trước hạnh phúc không thành của đứa con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn đạo làm cha. Cũng vì thế mà anh con trai phải bỏ đi đồn điền cao su. Thế là cái nghèo cũng cướp luôn đứa con trai khỏi tay lão. Kể với ông giáo mà nước mắt lão ngân ngấn: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi nữa?” Câu nói của lão đã nhói lên một nỗi đau bởi nó đã khái quát cả một đời người trong xã hội cũ. Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi một mình trong nỗi buồn ngày đêm chồng chất, chỉ có con Vàng làm bạn. Vậy mà tình cảnh thiếu thốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó, chia ta với niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của mình. Và có lẽ đây cũng chính là giây phút đau đớn nhất của lão. Nỗi bất hạnh chưa dừng ở đó. Sau những ngày ăn khoai, củ chuối, sung luộc, … cuộc sống bế tắc, cùng quẫn đã đẩy lão đến cái chết bằng bả chó. Cái chết vô cùng dữ dội và bi thảm: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão đang ở đỉnh cao của cuộc hành xác. Chính nghèo khổ đã đẩy lão đến cái chết thảm khốc chưa từng thấy. Như vậy, không miêu tả quá nhiều, chỉ với một nét chấm phá đã đủ đặc tả cuộc sống thấm thía kiếp nghèo tủi nhục của người nông dân lớp bần cùng hóa. Hiện tại thì cùng quẫn, tương lai thì mịt mờ không lối thoát. Liệu còn gì đau khổ hơn, đen tối hơn những gì mà người nông dân xưa phải chịu?

Dù hoàn cảnh cùng quẫn, số phận bất hạnh nhưng chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta thấy bừng sáng lên vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của người nông dân xưa. Lão Hạc hiện lên là người nông dân giàu tình yêu thương con sâu sắc. Khi không đủ tiền cưới vợ cho con, “lão thương con lắm nhưng biết làm sao được”. Đó là tình yêu thương con đầy bất lực của người cha nghèo. Sau đó, anh con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Một lần nữa, nỗi đau mất con của người cha “chỉ biết khóc chứ còn biết làm thế nào nữa”. Tiếng khóc của nỗi đau bất lực khi để đứa con tuột khỏi tay mình. Đến khi con đi, lão tự xóa đi quyền sở hữu của mảnh đất để làm thuê. Bởi lão nghĩ “vườn của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Đến cảnh bần cùng, lão vẫn nghĩ cho con: “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ tổ chết nó”. Cũng vì con, lão đã bán đi đứa con tinh thần của mình- cậu Vàng đã sớm hôm bên cạnh. Để rồi cuối cùng, lão đã tuyên sinh bằng bằng bả chó để bảo toàn hạnh phúc cho đứa con, vì con. Không được học hành, không biết chữ nghĩa nhưng cái chết dữ dội của lão chính là minh chứng cảm động về tình phụ tự nguyên sơ, mộc mạc mà thiêng liêng nhường nào.

Không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực, lão còn là một người nông dân chất phác, hiền lành, nhân hậu. Đó là cái tình của lão đối với cậu Vàng được ghi lại qua những con chữ xúc động. Lão gọi nó là cậu Vàng “như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự, lão bắt rận, mắng yêu, tắm cho nó. Lão coi nó nhưng đứa cháu, bạn hiền trong nhà mà thương yêu. Để rồi khi bán chó, lão chìm xuống đáy của bể bi kịch. Lương tâm của ông lão đau nhói, lão đã khóc vì trót lừa một con chó: “tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó”. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì ông lão mới bị dày vò đau đớn như thế.

Đặc biệt, dù là người nông dân nghèo, ở lão Hạc vẫn sáng ngời lòng tự trọng. Dù phải sống với cái đói gieo đói dắt, ăn những món ăn tự chế nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo gần như là hách dịch. Đó là một lão nông dân còn tiền nhưng lại gửi ông giáo để khi lão chết có tiền làm ma, không muốn làm phiền đến hàng xóm. Lòng tự trọng không cho phép lão làm phiền đến người khác. Cuối cùng, lão phải quyên sinh bằng bả chó. Lòng tự trọng không cho phép lão làm trái với lương tâm của mình: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Không giàu sức mạnh phản kháng như chị Dậu nhưng sự phản kháng, đấu tranh với chính mình mới là cuộc chiến khốc liệt nhất. Cái đói khiếp thật, miếng ăn quý thật nhưng vì nó mà đánh đổi nhân cách thì thật đáng buồn. Lão đã chọn cái chết để bảo toàn nhân cách trong khi đã có biết bao nhiêu người ngã khuỵu trước miếng ăn: những Chí Phèo, Binh Tư, bà cái Tí, … Đó chính là vẻ đẹp tiềm ẩn trong người dân nghèo.

Như vậy, Nam Cao đã khắc họa thành công hình tượng lão Hạc qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động với những dòng trạng thái phức tạp, đối nghịch mà rất biện chứng. Cái mới của Nam Cao còn là đã học được ở phương Tây nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị có sự đối lập với tính cách. Nhân vật lão Hạc được soi chiếu qua nhiều cái nhìn và góc độ khác nhau. Nam Cao còn gây ấn tượng bởi cách đảo ngược dòng thời gian kể. Qua hình tượng lão Hạc, Nam Cao đã khắc họa thành công những số phận đau khổ, bất hạnh trong xã hội cũ mà cội nguồn của nó chính là sự thối nát, bất công của xã hội cũ. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, họ vẫn sáng lên chất “người”. Chưa từng đọc sách thánh hiền, không được đi học nhưng cả cuộc đời và vẻ đẹp của họ chính là minh chứng cảm động và đầy đủ nhất về nhân cách con người. Đó chính là thái độ trân trọng, ngợi ca, niềm tin của tác giả dành cho người nông dân. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Ngày nay, cuộc sống nghèo đói, buồn đau đã đi vào dĩ vãng. Nhưng mỗi lần đọc “Lão Hạc” ta càng thấy xót xa cho ông cha ta thuở trước, thêm tin yêu cuộc sống mới.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 6

Nhắc đến Nam Cao- một cây bút hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam, chúng ta nghĩ ngay tới “Chí Phèo” nhưng nếu nói: Nam Cao – nhà văn của tình thương, ta nghĩ ngay tới “Lão Hạc”. Số phận cuộc đời và vẻ đẹp, tính cách của Lão Hạc chính là thông điệp về tình thương của tác giả.

“Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân trong xã hội phong kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943. Khi thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành xong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đem đến nhiều thay đổi, biến động cho xã hội Việt Nam. Người nông dân trong xã hội phong kiến đã chẳng dễ sống nay còn phải chịu cảnh “Một cổ hai tròng”. Nhân vật chính câu chuyện là người nông dân – người cha góa vợ, chỉ còn đứa con trai và chú chó Vàng được đặt trong cái nhìn của ông giáo. Vì phẫn chí không có tiền lấy vợ mà con lão bỏ đi đồn điền cao su, để lại mình lão với con chó. Lão coi Vàng như một người con trong nhà mà chăm sóc nhưng mất mùa, rồi lại đói kém, nhịn ăn không được lão quyết định bán Cậu Vàng và chọn cho mình cái chết vì không muốn phạm vào tiền để cho con. Câu chuyện là cái nhìn chân thực, đau đớn nhất về số phận bi thảm của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của tình yêu thương, lòng tự trọng và tình người.

Trước hết, Lão Hạc hiện lên là nạn nhân của cái nghèo, cái đói của xã hội cũ. Toàn bộ tài sản của người nông dân ấy chỉ có một mảnh vườn và con chó. Vì nghèo mà lão không có đủ tiền để lo đám cưới cho con, để đứa con phải phẫn chí đi làm xa. Cái nghèo khiến lão không làm tròn trách nhiệm của một người cha cần phải làm. Cái nghèo bắt lão phải sống cảnh cô đơn, hiu quạnh trong tuổi xế chiều. Rồi cái đói ập đến, nó khiến lão phải sống khổ sở. Mảnh vườn thì còm cõi, xơ xác chỉ đủ cho lão bòn mót. Lão phải làm thuê, làm mướn để đổi lấy miếng ăn nhưng chẳng thể so với người trẻ. Rồi lại một trận ốm làm “lão yếu đi ghê lắm. tiền bấy lâu dành dụm đều cạn kiệt”. Cái nghèo, cái đói còn bủa vây khiến có lúc lão phải thốt lên rằng: “Cái kiếp chỉ nhỉnh hơn kiếp một con chó”.

Lão Hạc còn là nạn nhân của những khổ đau. Vợ mất sớm, sợi dây tình cảm với người con trai cũng chẳng giữ được. Không thể làm tròn chức trách một người cha, để rồi mỗi lần nhắc về con là mỗi lần nước mắt lại rơi: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi nữa?”. Chỉ còn mỗi con chó Vàng làm bạn, làm người thân. Nhưng còn gì đau đớn hơn khi phải bán đi chính thứ mình đã coi là một phần máu thịt, là con của mình. Đến cuối hành trình, vẫn là cái chết bi thảm và dữ dội: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão đang ở đỉnh cao của sự hành xác. Làm sao quên được cái chết đau đớn ấy, khác nào cái chết của một con vật! Hiện tại thì tối tăm, tương lai thì mờ mịt và bế tắc. Liệu còn khì khổ đau hơn những điều người nông dân xưa phải chịu?

Nhưng Nam Cao không phải chỉ là nhà hiện thực lạnh lùng, ông còn là sứ giả của tình thương. Ông đã dùng tấm lòng nhân đạo của mình để thấy được vẻ đẹp trong tính cách của Lão Hạc. Trước hết, đó là người cha giàu tình yêu thương con. Khi không đủ tiền để cưới vợ cho con: “lão thương con lắm nhưng biết làm sao được”. Câu nói đầy bất lực của một tấm lòng chan chứa yêu thương. Nhìn con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su mà lão “chỉ biết khóc chứ còn biết làm thế nào nữa”. Tiếng khóc bất lực của người cha khi để con tuột khỏi tay mình. Ở nhà, lão tự tước đi quyền sở hữu mảnh đất. Bởi “vườn của mẹ nó tậu thì nó hưởng” và “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ tổ chết nó”. Cũng vì thế mà lão đã bán đi đứa con tinh thần của mình- cậu Vàng. Để rồi, cái chết cuối truyện cũng chỉ là để bảo toàn hạnh phúc cho đứa con. Không được học hành, cũng chẳng được dạy chữ nghĩa nhưng chính những điều lão làm là minh chứng cảm động nhất về tình phụ tử nguyên sơ, mộc mạc mà thiêng liêng.

Lão Hạc còn là một người nông dân nghèo giàu lòng tự trọng. Đó là khi dẫu bị cái đói, cái nghèo làm khổ sở, phải ăn những món tự chế nhưng chưa một lần ông nhận sự giúp đỡ của ai. Đó là khi còn tiền nhưng lão vẫn gửi tiền ông giáo để có tiền làm ma, để không phải làm phiền hàng xóm. Cái chết của lão cũng là minh chứng cho câu nói: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Lòng tự trọng ấy, không cần phải dữ dội như sự phản kháng mạnh mẽ của chị dậu nhưng lại là lòng tự trọng phải đánh đổi dữ dội nhất. Khi đứng trước miếng ăn, có những con người đã gục ngã: Binh Tư, bà cái Tí hay trượt dài trên con đường tha hóa: Chí Phèo thì Lão Hạc vẫn có thể giữ vững mình trên bờ vực, trước ranh giới của sự tha hóa. Đó chính là vẻ đẹp, phẩm giá của con người Việt Nam, người nông dân Việt Nam.

Đặc biệt, Nam Cao đã khám phá ở Lão Hạc một phẩm cách rất đặc biệt, tính người và tính đồng loại. Với người khác, chó chỉ là một vật nuôi, vật trao đổi hay cùng lắm là một người bạn mua vui. Nhưng với lão, đó không đơn giản như vậy. Lão gọi nó là cậu Vàng như “bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu từ”, rồi lão bắt rận, mắng yêu nó, tắm cho nó. Và khi bán chó, lão chìm xuống đáy của bi kịch. Lòng lão đau nhói, những giọt nước mắt như rỉ ra từ đó: “những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra” rồi lão hu hu khóc như con nít. Con người ta tự bao giờ phân định mình tách biệt với tự nhiên, là bậc cao hơn với động vật? Chỉ có lão Hạc coi cậu Vàng như là một sinh linh, một mạng sống. Những giọt nước mắt đưa con người về thời nguyên sơ, thuần khiết nhất, trở về với bản tính của mình, hòa nhập cùng thiên nhiên. Bởi thế, Nam Cao mới coi giọt nước mắt là “giọt châu của loài người”, thể hiện tính người.

Như vậy, bằng tài năng của một cây bút văn học trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, tạo dựng chi tiết và tình huống bất ngờ, Nam Cao đã vẽ lên bức tranh số phận và vẻ đẹp của người nông dân trong xã hội đen tối qua hình ảnh cuộc đời lão Hạc.Bằng tác phẩm của mình, tác giả không chỉ tố cáo hiện thực mà còn thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình. Với ông, văn học chính là một loại hình của yêu thương mà mỗi tác giả phải là sứ giả của tình thương, mỗi tác phẩm là thông điệp của tình thương.

Bởi những giá trị và tầm tư tưởng ấy, “Lão Hạc” chưa và không bao giờ rời khỏi một góc yêu thương của người đọc mọi thế hệ.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 7

Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, nó như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Nam Cao luôn trăn trở về số phận của người nông dân lương thiện trong xã hội phong kiến. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là chân dung của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thật đáng thương bởi cái nghèo nàn, túng thiếu. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Khi đứa con trai đến tuổi lấy vợ, lão tính chuyện cưới vợ cho con, nhưng vì nghèo túng mà người ta lại thách cưới nặng quá nên con trai không cưới được vợ. Thất vọng, đứa con bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi con đi rồi, lão cô đơn, sống trong hiu quạnh. Bấy giờ, chỉ có con Vàng là nguồn vui của lão. Cậu Vàng được lão chăm sóc chu đáo. Lão xem cậu Vàng như một đứa trẻ cần sự chăm sóc, yêu thương. Lão nhân hậu ngay cả với con chó của mình. Tội nghiệp cho số phận ông lão. Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên ông. Vợ chết để lại mảnh vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái vườn là của con ta ... của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới vợ. Cảm thương cho ông lão đã vò võ trông con về làng, lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc. Nhưng hy vọng chẳng có, thất vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, củ ráy, con ốc, con trai...

Vì không kiếm được tiền để sống, lại sợ tiêu lạm vào tiền của con nên lão quyết định tìm đến cái chết. Lão chết để con lão khỏi trắng tay. Thật cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người cha khốn khổ! Số phận của lão thật bi thương. Nghèo đến nỗi phải bán đi con Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Kể lại việc bán chó với ông giáo, lão đau đớn xót xa: mặt lão đột nhiên rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc... lão khóc vì thương chó, và cảm thấy mình là kẻ lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão thật bi thương nhưng lão không đánh mất phẩm giá của mình. Đến bước đường cùng lão luôn nghĩ đến con mà chẳng nghĩ đến mình. Lão đủ can đảm để nghĩ đến chuyện kết thúc cuộc đời để không làm phiền đến ai. Lão từ chối mọi sự thương hại của người khác, cho dù đó là sự cưu mang chân tình. Ngay cả ông giáo, người hàng xóm gần gũi nhất và tin tưởng nhất, ông cũng từ chối sự giúp đỡ. Lão Hạc còn nghĩ đến cái chết không làm phiền lòng người khác. Lão nhịn ăn, tích góp được hai lăm đồng cộng với năm đồng bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm đám ma cho lão. Trước khi chết, lão còn nghĩ đến hạnh phúc của con. Lão viết văn tự nhượng mảnh vườn cho ông giáo để không ai còn mơ tưởng, dòm ngó đến, khi nào con lão về thì sẽ nhận vườn làm. Tuy lão nghèo khó, lại bị xã hội bỏ rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao đẹp của mình.

Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra... Cái chết đau đớn của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện. Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách của lão thật cao quí. Cả đời lão nghèo đói nhưng không làm mất đi tấm lòng đôn hậu, trong sáng của mình.

Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm cảm thương vô hạn đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngòi viết của Nam Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 8

''Lão Hạc" của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – Lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.

Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia sẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định ''có lẽ tôi bán con chó đấy" của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.

Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi cái đói bám. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi gạo thì cứ kém mãi đi mà một ngày lo ba hào gạo thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.

Khoảnh khắc lão cố làm ra vui vẻ cũng không giấu được khuôn mặt cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước. Nỗi đau đớn cố kìm nén của Lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.... Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: ''Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó". Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, Lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: ''Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn". Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố cười gượng" một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối.

Kết cục số phận của Lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với Lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của Lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 9

Viết về số phận của người nông dân trước cách mạng tháng 8, Lão Hạc là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương trước cuộc đời bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại cho chúng ta bao ám ảnh về số phận của con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ.

Lão Hạc cũng như hàng triệu người nông dân xưa đều chịu chung hoàn cảnh bất hạnh, nhưng trong đó nổi bật lên một phẩm chất tốt đẹp, đáng quý, đáng trân trọng. Lão Hạc - một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều tranh vách nát, một con chó vàng là tài sản, vốn liếng duy nhất của lão. Vợ Lão Hạc mất sớm, sống trong cảnh gà trống nuôi con. Con trai lão không đủ tiền cưới vợ nên buồn phiền, phẫn chí đi làm phu đồn điền cao su, đã 5, 6 năm biền biệt chưa về. Vậy nên dân ta thường có câu "Cao su đi dễ, khó về" là vậy. Tuổi già cô quạnh, bất hạnh ngày càng chồng chất. Lão Hạc bị ốm một trận thập tử nhất sinh mà không một người thân bên cạnh đỡ đần, chăm sóc một bát cháo một chén thuốc khi ốm đau bệnh tật. Hoàn cảnh của Lão Hạc thật đáng thương. Sau trận bão, vườn tược, hoa màu bị phá sạch. Làng bị thất nghiệp nhiều, trong đó có Lão Hạc vì lão trở nên yếu hẳn sau khi ốm dậy, không ai còn muốn thuê lão làm nữa. Lão với cậu Vàng - con chó mà người con trai trước khi đi đã để lại cho lão, ăn uống mà vẫn đói deo, đói dắt, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. "Nhưng đời người ta không chỉ đau khổ một lần". Ông giáo đã nói với Lão Hạc như vậy trước ý định bán chó của lão. Vì cậu vàng ăn nhiều mà Lão Hạc không đủ khả năng nuôi dưỡng nó nữa. Bán cậu vàng, lão như bị đẩy sâu xuống bờ vực thẳm, cảm thấy mình ích kỉ, tệ bạc, già rồi mà còn đánh lừa một con chó. Đói khổ, túng bấn, cô đơn thêm nặng nề. Lão Hạc chỉ ăn khoai, củ chuối, củ ráy, sung luộc, vài bữa trai ốc cho qua ngày. Để rồi cuối cùng lão phải quyên sinh bằng bả chó, một cái chết đau đớn, thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc tru tréo, bọt mép sùi ra, vật vã hai giờ đồng hồ mới chết. Một cái chết thật dữ dội. Số phận một con người, một kiếp người như Lão Hạc thật đáng thương. Ôi! Bao niềm xót xa, thương cảm đối với những con người nghèo khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ tự tử và Lão Hạc đã kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. "Nếu kiếp người đau khổ nốt thì ta nên làm gì cho thật sướng". Câu nói đó đã thể hiện cái đau khổ tột cùng của Lão Hạc.

Nhưng Lão Hạc có bao phẩm chất tốt đẹp, là một con người hiền lành, chất phác, nhân hậu, là một người cha có trách nhiệm. Lão đau đớn khi đứa con trai độc nhất đi phu đồn điền cao su và lão khóc "Hình của nó người ta giữ, ảnh của nó người ta chụp, nó là con người ta rồi chứ đâu phải con tôi". Ba sào vườn là của vợ lão đã thắt lưng buộc bụng để lại trước khi mất. Lão thà chết chứ không chịu bán đi một sào, nhất quyết để lại cho đứa con, một sự hi sinh thầm lặng to lớn, tất cả vì con, mãi dành cho con những gì tốt nhất của cuộc đời. Lòng nhân hậu của lão được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng. Chính nó là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, nguồn động viên, khích lệ lão trong những tháng ngày cô đơn, tuyệt vọng nhất. Lão coi nó như đứa con, đứa cháu, như một thành viên trong gia đình. Lão cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu, lão bắt rận, tắm rửa cho nó. Lão trò chuyện với nó "Cậu vàng của ông ngoan lắm, ông để ông nuôi...", lão ăn gì cũng cho cậu vàng ăn. Và cậu vàng đã góp phần toả sáng tâm hồn và làm sáng lên bản tính tốt đẹp của lão, nó là một phần của cuộc đời lão. Vậy nên sau khi bán chó, lão đã tự tử cũng chính bằng bả chó như để tự trừng phạt mình.

Và Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ nhưng trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù có đói khổ, túng bấn, dù phải ăn củ chuối hay sung luộc nhưng khi ông giáo mời ăn khoai, uống trà thì lão cười hiền hậu bảo để khi khác. Dù ông giáo có ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão đã từ chối gần như là hách dịch. Sau khi bán chó, lão đau khổ, dằn vặt và vẫn luôn giữ nguyên mảnh vườn cho con trai. Lão gửi ông giáo 3 sào vườn và 30 đồng bạc phòng khi chết để không làm phiền tới láng giềng. Lão luôn sống theo quy tắc "Đói cho sạch, rách cho thơm". Nhà văn Nam Cao đã khéo léo đưa Binh Tư - một kẻ chuyên đánh bả chó ở cuối truyện để làm nổi bật lòng tự trọng, trong sạch của lão nông dân nghèo khổ. Ông giáo đã nói "Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không hiểu họ thì ta cho rằng họ gàn dở, ngu ngốc và bần tiện".

Tóm lại cuộc đời Lão Hạc đầy nước mắt, đau thương. Sống thì cô đơn, bất hạnh, nghèo đói, chết thì quằn quại đau đớn. Lão Hạc cũng đại diện cho số phận của bao người nông dân khác. Trong khổ đau, gian truân, nổi bật lên một phẩm chất hiền lành, nhân hậu, chất phác và giàu lòng tự trọng. Nam Cao đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng tháng 8.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 10

Hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 được khai thác một cách sâu sắc và triệt để trong văn học. Qua những trang văn của các tác giả, những con người với số phận bất hạnh nhưng ngời sáng những phẩm chất cao quý được thể hiện một cách rõ nét. Nếu Ngô Tất Tố thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật chị Dậu, một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh nhưng cũng có những phút giây vùng lên để chống lại cái xấu, cái ác trong "Tắt đèn" thì Nguyễn Công Hoan lại xây dựng hình ảnh một anh Pha dám vùng lên đánh trả lại bọn cường hào ác bá trong "Bước đường cùng". Và Nam Cao với hình tượng nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân với số phận nghèo khổ, bần cùng nhưng lương thiện, chất phác và rất giàu lòng tự trọng.

Lão Hạc có số phận bất hạnh vô cùng.Sự khổ đau, bất hạnh của lão thể hiện ngay từ hình dáng đến cuộc sống của lão. Một ông lão già nua, bất hạnh vì phải chịu cảnh cô đơn, bệnh tật lại nghèo đói. Hoàn cảnh của lão Hạc vô cùng cực khổ.Vợ lão chết sớm, lão phải lâm vào tình cảnh gà trống nuôi con. Vậy nhưng con trai lão cũng bỏ lão mà đi làm tại đồn điền cao su. Lão Hạc cô đơn, buồn tủi với tuổi tác đã già chỉ biết bầu bạn với con chó Vàng. Chính hoàn cảnh khốn cùng ấy với hoàn cảnh neo đơn của lão đã khiến người đọc vô cùng xót xa, thương cảm. Lão coi Vàng như một đứa con, đứa cháu, một người ruột thịt của mình. Lão chia sẻ từng đồ ăn, thức uống, trò chuyện, tâm sự với nó như một con người. Lão Hạc vì bất đắc dĩ phải đành lòng bán đi cậu Vàng, cái tên thân thương mà lão dành cho con chó của mình. Lão vì thương con trai, không muốn tiêu phạm vào số tiền dành dụm cho con. Lão đã tính kĩ mỗi ngày cậu ấy ăn thế cũng mất hai hào. Mà cứ thế này thì lão không lấy tiền đâu mà nuôi được.Đối với lão, giờ đây, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con trai. Cảnh tượng lão Hạc chia tay với con chó Vàng vô cùng xúc động. Đọc đoạn văn ấy, người đọc rưng rưng xúc động, đồng cảm sâu sắc với lão Hạc. Nam Cao cũng đã vô cùng thành công khi miêu tả cảnh tượng ấy chỉ bằng những nét chấm phá trên gương mặt đau khổ của lão. Sau khi bán con chó đi, lão Hạc sang nhà ông giáo để chia sẻ. Dù lão cố làm ra vẻ bình thường nhưng không thể nào giấu đi được khuôn mặt biến dạng của con người già nua đầy đau khổ đó. Nam Cao đã vô cùng tinh tế khi miêu tả lại khuôn mặt ấy: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...".Bán đi cậu Vàng, lão đau như cắt từng khúc ruột.Nhưng bởi hoàn cảnh sống, bởi tình thương yêu con vô bờ bến mà lão phải đưa ra quyết định ấy. Chính nỗi khổ tâm của người cha già luôn dằn vặt, đau đáu chuyện vì nghèo, vì khổ mà không cưới được vợ cho con, thêm nữa giờ đây cũng vì hoàn cảnh mà lão đối xử không đàng hoàng đối với một con chó. Lão nhờ ông giáo giữ lại hộ mảnh vườn để mai sau người con trai lão trở về sẽ có nhà để ở, có vườn ruộng làm ăn. Lão tự lo cho hậu sự của mình sau này, lão không muốn nhờ vả hay vay mượn bất cứ ai.

Cảnh sống nghèo khốn khó về vật chất và sự suy sụp về tinh thần khiến cho lão Hạc kiệt sức.Lão rơi vào cảnh bần cùng hóa. Không kiếm được việc làm, lại không có đủ sức khỏe, cô đơn lạc lõng, lão sống vật vờ qua ngày với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc...Cái kết của câu chuyện là một cái kết đầy đau xót đối với độc giả. Lão Hạc đã tìm đến cái chết. Sau cùng, con người khốn khổ ấy cũng tìm cho mình một lối giải thoát.Hầu hết khi nghĩ đến việc tự tử, người ta thường nghĩ đến những việc làm sai trái, tiêu cực nhưng với lão Hạc, lão không nào có tội tình gì. Lão chết với lí do muốn giữ lại tiền cho con trai mình, không muốn nhờ vả liên lụy mọi người xung quanh. Cái chết của lão cũng thật đau đớn, xót xa: "Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên".Lão đã tự tử bằng thuốc chuột.Cho đến cuối đời, lão nông khốn khổ ấy vẫn đau đớn và bất hạnh vô cùng. Một con người, một số phận đầy đau thương.

Lão Hạc là một trong những nhân vật điển hình trong các sáng tác của Nam Cao. Chúng ta tự đặt ra câu hỏi: Phải chăng Nam Cao đã quá lạnh lùng với ngòi bút của chính mình? Phải chăng số phận của những nhân vật trong những tác phẩm của Nam Cao lại đều đau thương đến vậy?Thế nhưng ngẫm nghĩ lại, ta lại thấy đằng sau ngòi bút ấy là một tấm lòng chan chứa yêu thương. Càng viết, tác giả như càng muốn phơi bày sự thật của chế độ phong kiến tàn ác, chế độ đã đàn áp và đưa con người ta đến bước đường cùng. Vậy nhưng trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt ấy, những nhân vật của ông luôn ngời sáng lên vẻ đẹp tinh thần. Nhắc đến đây, ta lại nhớ đến nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Anh Chí ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao với sự thay đổi về cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng có một khát khao lớn là muốn "làm người". Thế nhưng chính xã hội bất công ấy đày đọa con người ta đến bước đường cùng. Để rồi cuối cùng phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát.

Có nhiều người cho rằng cách kết thúc tác phẩm của Nam Cao thường là ngõ cụt, mang tính tiêu cực.Thế nhưng điều đó làm cho hiện thực cuộc sống được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Lão Hạc, một cuộc đời đầy nước mắt, khổ đau, bất lực cho đến lúc mất đi nhưng luôn giữ trong mình bản chất lương thiện, hiền lành, nhân hậu. Đó cũng chính là thông điệp mà Nam Cao muốn truyền đến độc giả về bản chất của văn chương trong những sáng tác của ông: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". 

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 11

Từ xưa đến nay, nói đến Nam Cao là người ta nói ngay đến Lão Hạc. Tác phẩm này được coi là một truyện ngắn xuất sắc trong văn học hiện thực phê phán thời kì 1930 – 1945. Đó !à một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã khắc vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi những đau khổ, bất hạnh, một kiếp đời chua chát và đắng cay từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Góa vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trống nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ, những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng hạnh phúc nhỏ nhoi ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi làm phu đồn điền cao su. cảnh chia li của cha con lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc đã mất vợ nay lại thêm nỗi mất con.

Cảnh khốn khó về vật chất hoà trong nỗi đau tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi lại bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha già khốn khổ. Kiệt sức vì lam lũ, lầm than, vì mòn mỏi đợi chờ, lão ốm nặng. Sau trận đó, lão yếu đi nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hoá hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc,… Những thứ ấy cũng chẳng dễ gì kiếm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, lão Hạc tìm đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo, bọt mép sùi ra,… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết thật dữ dội ! Số phận một con người, một kiếp sống như lão thật đáng thương.

Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nỗi xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão Hạc. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết, và lão Hạc cũng quyên sinh bằng cái bả chó ! Lão Hạc từng hỏi ông giáo : “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?”. Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người.

Lão Hạc sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm. Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền để cưới vợ, lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và lão day dứt mãi. Khi con phẫn chí đăng tên đi làm phu đồn điền cao su, trái tim người cha thực sự tan nát. Nỗi thương nhớ thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông : “Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ”. Ta đọc được trong câu nói ấy cái tình cảm ấm áp của người cha. Thương nhớ con, lão dồn tình cảm âu yếm vào “cậu Vàng” – kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu Vàng đã chứa đựng tất cả tình quý mến và thân thiết đối với một con vật – một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Vậy lão không đôn hậu, yêu con đó sao ? Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho .con và con chó – người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây ! Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt, đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó. Cuộc lựa chọn khó khăn, tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo cho tương lai của đứa con. Hình ảnh lão Hạc “miệng méo xệch”, “khóc hu hu” khi nghĩ rằng mình đã đánh lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng nhân ái cao cả.

Bao nhiêu tình thương yêu con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão Hạc có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước khi chết, lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy… Cuộc đời lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khốn khó, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết cũng chẳng sung sướng hơn gì lão, càng không cho phép lão phiền lụy đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma cho mình. Ta nhận thấy ở lão Hạc một triết lí sống cao đẹp biết nhường nào…

Dưới một xã hội đen tối, ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hoá, biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ trong một loạt những, sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: “Binh Tư lại một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa gì lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá.”. Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư, nhưng lão Hạc không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lí “thác trong hơn sống đục” của nhân dân ta.

Cuộc đời lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực. Sống thì âm thầm, nghèo đói cô đơn ; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng,… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với bao nhiêu trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 12

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Lão không chỉ đại diện cho số phận cùng cực, bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ mà lão còn là đại diện cho những phẩm chất cao quý, tiềm tàng trong họ.

Trước hết lão hạc là người có số phận bất hạnh. Lão góa vợ, sống một mình nuôi con, vì gia cảnh nghèo khó, số tiền thách cưới lại quá cao nên lão không thể lấy vợ cho con, bởi vậy trong lòng lão lúc nào cũng mang tâm trạng dằn vặt, đau đớn. Cũng bởi việc này mà con trai lão bỏ đi đồn điền cao su, bặt vô âm tín. Về già những tưởng có người chăm sóc thì lão lại phải sống trong cảnh cô đơn. Lão không được sống cuộc đời an nhàn, thảnh thơi, dù già nhưng lão vẫn đi làm thuê, để tích cóp cho con. Nhưng số phận trêu đùa, một trận ốm nặng lấy hết tiền lão đã dành dụm, trận bão cướp hết hoa màu. Càng trớ trêu hơn khi cậu Vàng – kỉ vật con trai lão để lại, lão yêu nó hơn cả bản thân nhưng nay lão lại phải bán nó đi. Lão rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng. Nhưng thực tế khốn khó, dù vô cùng đau đớn lão cũng đành phải bán cậu Vàng. Sau khi bán cậu Vàng, lão rơi vào khủng hoảng tâm lí trầm trọng: “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”, “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.

Lão ân hận, day dứt khi đã bán cậu Vàng. Lão tự kết tội mình là đã đánh lừa một con chó. Trong cuộc đời đầy những vất vả, đổi trắng thay đen, người ta lừa lọc nhau để sống nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã bán một con chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và nhân cách cao đẹp trong con người lão Hạc. Dù đã bán cậu Vàng những cuộc sống vẫn lão ngày một nghèo khó, lão vớ được thứ gì ăn thứ đó và cuối cùng lão đã tìm đến cái chết như một cách tạ tội với cậu Vàng và giải thoát chính mình. Tuy nhiên, cách giải thoát của lão hết sức bi thảm: tự tử bằng việc ăn bả chó. Việc một con người giàu lòng yêu thương, trung thực phải tìm đến cái chết đau đớn vật vã như vậy tự bản thân nó đã bao hàm ý nghĩa lên án, tố cáo xã hội phi nhân tính.

Không chỉ vậy, lão còn là một người cha hết mực thương con và có trách nhiệm. Khi con bỏ đi đồn điền cao su, lão luôn cảm thấy đau đớn, xót xa vì đã không làm tròn vai trò của một người cha. Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn hết vào việc chăm sóc cậu vàng: lão âu yếm trò chuyện với nó, cho nó ăn cơm trong bát như nhà giàu,… Lão không ngừng lao động, chắt chiu, tằn tiện để dành dụm cho con. Lão quyết tâm tìm mọi cách để giữ lại mảnh vườn cho con. Những ngày đau ốm, cùng trận bão đã cướp sạch đi tiền của và hoa màu của lão, những ngày sau đó lão sống lay lắt, tằn tiện cuối cùng lão quyết định tìm đến cái chết. Trước khi chết lão sang nhà ông giáo gửi gắm lại mảnh vườn, để sau này đứa con trở về vẫn có nơi làm ăn sinh sống. Lão chu toàn trong tất cả mọi việc, không chỉ suy nghĩ trong hiện tại, mà còn bảo vệ tài sản cho con cả ở tương lai. Ông quả là có tình yêu thương con sâu sắc, tha thiết.

Lão Hạc còn là người có lòng tự trọng sâu sắc. Lão luôn sống bằng sức lao động của mình. Dù ông giáo có thiện ý giúp đỡ nhưng lão vẫn từ chối: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng ăn một vài củ ráy hay bữa ốc”. Nhân cách trong sáng của lão còn thể hiện trong dòng nước mắt, trong lời nói đầy ân hận khi lão đã trót lừa cậu vàng, và lão đã lấy cái chết đau đớn, vật vã như một con chó để tạ lỗi với cậu Vàng. Trước khi chết lão chuẩn bị hết sức chu đáo, lão gửi lại tiền ma chay cho ông giáo để sau này khi chết đi không làm phiền đến hàng xóm. Lão quả thật là một con người có nhân cách cao đẹp đáng trân trọng.

Để miêu tả toàn bộ cuộc đời nhân vật, tác giả đã lựa chọn hình thức trần thuật hết sức phù hợp. Lấy người kể chuyện là ông giáo sẽ đem đến nhiều hiệu quả: là người gần gũi chứng kiến toàn bộ cảnh đời lão Hạc nên câu chuyện được thuật lại tự nhiên, chân thật, khách quan. Việc trần thuật từ ngôi thứ nhất khiến cho mạch kể linh hoạt, kết hợp giữa kể, tả và bình luận. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: tính cách, phẩm chất của nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động và sự đánh giá của các nhân vật khác. Ngôn ngữ nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ.

Nhân vật lão Hạc đại diện cho người nông dân Việt Nam mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp: tình yêu thương và lòng tự trọng, nhân cách cao đẹp. Qua nhân vật này tác giả vừa bộc lộ thái độ yêu thương, trân trọng đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 13

Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến "Lão Hạc". Tác phẩm này được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 - 1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã khắc họa vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Góa vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trống nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con Lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con

Cảnh khốn khó về vật chất hòa trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi. Lão ốm nặng. Sau trận ốm đó lão ốm đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hóa hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc .... Những thứ cũng chẳng dễ gì kiếm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, Lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm "đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến 2 giờ đồng hồ rồi mới chết". Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như Lão Hạc thật đau thương.

Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nỗi xót xa con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và Lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc từng hỏi ông giáo: "nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?". Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm. Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền cưới vợ, Lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đành trốn đi làm đồn điền cao su; trái tim người cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông: "Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ". Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp của người cha.

Thương nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu vàng – kỷ vật của người con để lại. Cái tên cậu vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật – một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó – người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó. Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh Lão Hạc "miệng méo xệch, khóc hu hu" khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả''.

Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy ... Cuộc đời Lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khốn khó, Lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gì hơn lão, càng không cho phép lão phiền lụy đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, Lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma chay cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết dường nào.

Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hóa biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, Lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: "Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn là nghề ăn trộm nên vốn không ưa gì Lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá". Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ sứ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lý "thác trong hơn sống đục" của nhân dân ta.

Cuộc đời của Lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sống thì âm thầm nghèo đói cô đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, Lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng .... Lão Hạc là một điển hình và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 14

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.

Vợ mất sớm, Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.

Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, Lão Hạc lại rơi nước mắt.

Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.

Nhưng nếu vì nhớ con mà Lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!

Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà Lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa... Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của nó... Ta không thể bán vườn để ăn... Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà Lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của Lão Hạc với ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!

Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy Lão Hạc là người đôn hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của Lão Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ Lão Hạc đã đến lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.

Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!

Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh Lão Hạc luôn nhắc chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 15

Trong văn học hiện thực những năm 1930-1945, Nam Cao là một cái tên tiêu biểu mà chúng ta không thể không nhắc đến. Các tác phẩm của ông mang đến cho người đọc cảm giác chân thực cùng ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm thành công của ông. Đến với tác phẩm để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc là hình ảnh lão Hạc- một người nông dân hiền lành,chất phác, giàu lòng nhân ái và lòng tự trọng nhưng lại có số phận vô cùng bất hạnh.

Lão Hạc- một con người nghèo khổ, bất hạnh. Vợ lão mất sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Vất vả nuôi con khôn lớn, đến tuổi lấy vợ,lão lại không lo được đủ tiền cưới cho con. Không lấy được vợ, con lão buồn phiền mà bỏ đi đồn điền cao su, đã 5-6 năm biền biệt chưa về. Tuổi già cô quạnh một mình, bất hạnh càng đến với lão khi lão ốm một trận thập tử nhất sinh, vườn tược, hoa màu bị phá sạch sau trận bão. Lão mất vé sợi, ốm xong không đủ sức làm việc nặng, những việc nhẹ nhàng thì bị đàn bà trong làng tranh hết. Lão Hạc ăn uống đói deo đói dắt, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cậu Vàng- con chó mà người con trai trước khi đi đã để lại cho lão, là niềm vui duy nhất trong quãng đời cuối của lão. Thế nhưng vì cậu Vàng ăn nhiều mà lão không nuôi nổi, phải bán chó. Sau khi bán cậu Vàng, lão Hạc đau khổ, cảm thấy mình tệ bạc, lão càng sống kham khổ. Lão chỉ ăn khoai, củ chuối, củ ráy,... Cuối cùng để bảo toàn số tiền cho con, lão kết thúc cuộc đời mình một cách đau khổ bằng bả chó.

Thế nhưng trước số phận khổ đau đó, lão Hạc vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Lão là một con người hiền lành, chất phác, nhân hậu, là người cha có trách nhiệm. Một tay nuôi lớn con vất vả, khi con không lấy được vợ, lão luôn dằn vặt vì không lo được cho con. Đến khi con trai bỏ đi, lão luôn mong nhớ và khóc rất nhiều. “ Hình của nó người ta giữ, ảnh của nó người ta chụp, nó là con người ta rồi chứ đâu phải con tôi”. Trong quãng thời gian con đi, ba sào vườn mà vợ để lại cho con, lão không động vào đồng hoa màu nào, tất cả để để dành lại để đưa cho con khi trở về. Cho dù phải bán chó hay chết, lão cũng quyết không dùng nó. Con đi để lại con chó. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con trai đều được lão gửi vào con chó. Lão thân mật gọi nó là “cậu Vàng”, đối xử với nó như một con người. Lão cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu, lão bắt rận, tắm rửa cho nó, trò chuyện với nó, lão ăn gì cũng cho nó ăn cùng. Cậu Vàng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc, niềm an ủi, động viên lão trong những ngày tháng cô đơn cuối đời. Thế nhưng lão vẫn phải bán nó. Tiếng khóc nức nở của lão sau khi bán con chó đã thể hiện sự nhân hậu của lão. Lão cảm thấy mình thật ích kỷ, tệ bạc, già rồi mà còn đánh lừa một con chó.

Lão Hạc còn là một con người trong sạch, giàu lòng tự trọng. Cho dù lão sống túng bấn đến đâu, lão cũng không muốn lấy của ai cái gì. Sau khi bán chó, lão chỉ ăn khoai, củ chuối, củ ráy, sung luộc, vài bữa ốc cho qua ngày, nhưng khi ông giáo mời ăn khoai, uống trà thì lão chỉ khéo léo từ chối bảo để khi khác. Khi mà ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối gần như hách dịch. Sau khi bán chó, lão Hạc gửi ông giáo 3 sào vườn và 30 đồng bạc để không làm phiền tới láng giềng khi ông chết. Và rồi cuối tác phẩm, Nam Cao làm người đọc bất ngờ khi nghe nhân vật Binh Tư- một kẻ chuyên đánh bả chó kể rằng lão Hạc vừa xin hắn một ít bả để bẫy con chó hay vào vườn nhà lão. Để rồi lại tới một bất ngờ khác khi chứng kiến cái chết thảm thương của lão. Từ đó càng thấy được lòng tự trọng, trong sạch của lão Hạc. Đó là một phẩm chất đáng quý mà khó ai giữ được trong hoàn cảnh của lão.

Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật lão Hạc với một số phận bất hạnh nhưng lại nổi bật trên đó phẩm chất tốt đẹp của lão- hiền lành, chất phác, yêu thương con, nhân hậu, trong sạch, giàu lòng tự trọng. Từ đó thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ thân thuộc và chứa chan tình nghĩa. Bởi những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những con người ruột thịt. Với Bằng Việt kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm thân thiết lắm nên mới khơi nguồn dòng cảm xúc nồng ấm để sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: bài thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ chúng ta vẫn được sưởi chung với nhà thơ hơi lửa của tình người thật gần gũi ân nghĩa, thật cao đẹp và thiêng liêng. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng cung bậc tâm trạng.

Ngỡ như ta đang nhóm bếp lửa vậy - lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà xưa là lửa của trăm nhà ngày nay.

Tám câu thơ đầu là kỉ niệm mới nhen lúc đứa cháu bốn tuổi:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa...

Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ thương và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh biết mấy nắng mưa. Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn gian khổ:

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Gia cảnh như thế nên tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà sao tránh được những cơ cực xót đau. Bao nhiêu kỷ niệm xa xưa được nhớ lại.

Trong đó có một ấn tượng nhất, nổi lên lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về khói bếp khói từ một bếp lửa của nhà nghèo.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ...
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay...

Mùi khói, rồi lại khói hun... nhà thơ đã chọn một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu tả chân thật cuộc sông tuổi thơ vừa thể hiện những tình cảm da diết bâng khuâng xót xa thương mến. Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay nhấn lại dòng kỉ niệm xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả tâm hồn và thể xác con người, dường như cả người đọc cũng cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những chi tiết ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ vừa mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc xanh... Mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.

Đoạn thơ tiếp theo:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

(...)

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhỏ thổi hồng lên kỉ niệm tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể trong chuyện cổ tích, có thời gian không gian. Có sự việc nhân vật cụ thể tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa, con số không lớn nhưng ngày tháng cứ kéo dài ròng rã, nặng nề. Bởi vì những ngày ở Huế ấy cuộc sống gia đình thật hoang vắng, quạnh hiu. Bố mẹ bận công tác xa không về. Chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau nhóm lửa mỗi sáng mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. Nếu trong kỉ niệm hồi bốn tuổi - ở phần trên - ấn tượng đậm nhất của cháu là mùi khói thì đến đây ấn tượng là tiếng tu hú kêu. Trong mười câu thơ mà có tới năm lần âm vang tiếng tu hú. Lúc mơ hồ vãng vẳng từ những cánh đồng xa, lúc gần gũi sao mà tha thiết thế, tiếng tu hú như than thở sẻ chia. Có lúc nó gióng giả, dồn dập kêu kêu hoài. Trong cảnh sông đơn côi chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh. Tiếng tu hú phải chăng là tiếng đồng vọng của đất trời, để an ủi kiếp người đau khổ? Đưa tiếng tu hú - một âm thanh rất đồng nội ấy - đã cho thấy thi sĩ Bằng Việt quả là một hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương. Trong các cung bậc khác nhau của tiếng tu hú, nỗi nhớ của người cháu mỗi lúc một tha thiết mạnh mẽ và hình ảnh người bà hiện lên mỗi lúc một đậm nét. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thực ngày nay chuyện cổ tích đời xưa... rồi bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, âm thầm hai bà cháu từng ngày từng tháng và tám năm ròng cùng nhau nhóm bếp lửa để sưởi ấm để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Hình ảnh bếp lửa và việc nhóm lửa cùng hình ảnh bà tần tảo âm thầm bên trong tiếng tu hú cứ trở đi, trở lại vấn vít, xoắn quyện vào nhau, dệt nên bức tranh xao xuyến.

Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực người bà vẫn bền vững, tấm lòng người bà vẫn mênh mông. Kỉ niệm mà người cháu nhớ bà cứ trang trải như ánh sáng bếp lửa. Ý thơ mở tiếp những sự việc cụ thể:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".

Lời thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên. Xin cứ để nguyên khôi chẳng cần phân tích lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thía vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết, rộng hơn, cao cả hơn là vẻ lung linh bất diệt của tình bà cháu hoà trong tình yêu quê hương, tổ quốc. Do đó không phải ngẫu nhiên, từ hình ảnh bếp lửa, đến đây lời thơ bừng sáng thành ngọn lửa:

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Bếp lửa ở những câu thơ trên, chủ yếu thể hiện cuộc sống âm thầm lặng lẽ trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháu. Từ ngọn lửa ở dòng thơ này đã mang ý nghĩa khái quát rộng lớn hơn. Đó là sức sống là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu, cuộc sống của cả gia đình rộng ra là đối với toàn dân tộc, với công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, lung linh chân dung người bà và làm ấm lòng cả trái tim bạn đọc chúng ta. Ngọn lửa biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt, không chỉ là kỉ niệm của riêng bà trong tình bà cháu trong bài thơ này mà còn là biểu tượng cho toàn dân tộc trong giai đoạn chống Mĩ xâm lược thắp sáng cho đến tận hôm nay.

Ở đoạn cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, chuyển từ cảm xúc nhổ' thương của đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với thế hệ ông bà, cha mẹ ngày trước:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa...

Hình ảnh người bà ôm trùm cả đoạn thơ. Điệp từ nhóm được nhắc lại bốn lần mang bôn ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần tỏa sáng dần nét kỳ lạ của bếp lửa và vẻ đẹp thiêng liêng của người bà từ vóc dáng đến việc làm nhất là nghĩa tình sâu nặng của bà. Nhóm bếp lửa ấy là cái bếp có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm yêu thương là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm. Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng người bà kì diệu ấy nhóm dậy khơi dậy giáo dục thức tỉnh tâm hồn và sức sống tuổi thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. Để đưa cháu được đi xa, được thấy ngọn lửa khói trăm tàu, để có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả, ngôn ngữ văn chương dạt dào như sóng rồi lan tỏa như lửa ấm, hay ở đây là cảm xúc dâng trào, đang tỏa ấm nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương ân nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà, tổ tiên. Vẻ đẹp của đạo lí: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm...

Tóm lại qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tấm lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê hương gia đình đất nước.

Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình luận. Thành công của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

Hình ảnh âm điệu thơ đặc sắc, sáng mãi ngân mãi trong lòng chúng ta.

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ "Bếp lửa" được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.

Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh "chờn vờn" gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt? Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: Nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã đem đến cho người đọc cảm giác thật ấm áp. Bếp lửa của nhà thơ là bếp lửa của tình yêu thương, của niềm tin, của sức mạnh, là cội nguồn nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Bài thơ làm xúc động lòng người trong từng con chữ, làm ấm lên tình bà cháu trong ánh lửa ấp iu nồng đượm. Và thật tự nhiên, bếp lửa của Bằng Việt đã gợi nhắc trong ta bao nỗi nhớ về những bếp lửa, những vùng trời kỉ niệm của riêng mình. Để rồi, ta càng thấy yêu thương hơn biết bao những con người thân yêu, những sự vật quen thuộc, gần gũi hằng ngày quanh ta. Bếp lửa của Bằng Việt vì thế càng trở nên kì diệu!

Những nỗi nhớ đó thể hiện sâu sắc với hình ảnh trong người bà và tác giả mong ước sẽ được quay trở lại những ngày đó sự mong ước của tác giả lớn lao và nó khắc họa sâu sắc trong trái tim của tác giả, những sự thấu hiểu và niềm vui khi được sống bên bà những hình ảnh đó mang những giá trị to lớn và vô cùng sâu sắc, niềm vui và những sự thấu hiểu đó đã gắn bó và khắc sâu trong tâm trí của tác giả, những nỗi niềm đó, những sự thấu hiểu và khắc khoải trong trái tim của ông, những nỗi niềm mong ước mong được sống những ngày ấm áp bên bà và ấm đượm trong những hình ảnh bếp lửa đó, hình ảnh mang những đặc trưng sâu sắc.

Hình ảnh bếp lửa đã thể hiện được sự gắn bó của người cháu với bà của mình, tình yêu thương đó ngày càng được ấm đượm và nó thể hiện những nỗi nhớ thương sâu sắc đối với những người bà của mình, những hình ảnh gợi tả những nỗi nhớ mong và sâu sắc vô tận.

Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 1

Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng - vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng biển bạc. Vầng trăng ấy đã theo tác giả từ thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ bền chặt, với bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Nhưng cuộc đời không phải là sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua chúng ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở nên thừa thãi vô nghĩa bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn cũng là quá khứ, vần có thể bị che khuất bởi những lo toan dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay đã bị trở thành “người dưng qua đường”. Cái ngỡ thân quen xưa nay trở thành âm thầm xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ tạo nên bước ngoặt của tác phẩm khi để tình huống bất ngờ “đèn tắt” xảy ra. Lúc đó con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ chợt họ nhận ra được vẻ đẹp và giá trị đích thực của ngày xưa ẩn sau sự dịu dàng và bao dung của ánh trăng.

Trên cơ sở đó, tác giả viết khổ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn cao thượng đến lạ lùng mặc cho con người có thờ ơ lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ thiếu thốn mà nghĩa tình, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương che chở đùm bọc cách mạng:

Trăng cứ tròn vành vạnh. Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân nghĩa thuỷ chung của một thời oanh liệt - dù đã lùi xa mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước toà án lương tâm. Quả thật chẳng có toà án nào xét sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri sâu thẳm mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm đối với quá khứ. Sự cao thượng vị tha của vầng trăng - bất chấp vô tình xa lạ - buộc con người phải suy nghĩ lại chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ có ba năm với cuộc sống thị thành, với bộn bề lo toan thường nhật có thể làm cho người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn thiếu thốn và sự ấm áp tình đồng đội, vòng tay che chở của nhân dân? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng điều đang xảy ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.

Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng nặng lòng toả sáng đêm đêm:

Ánh trăng im phăng phắc

Cho ta thấy được sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó lặng im trước sự bội bạc của con người, cái lặng im dịu dàng tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ chính sự im lặng ấy có sức mạnh khiến cho con người phải giật mình nghĩ lại. Họ nhận ra giá trị những điều mình đã bỏ quên — quá khứ của chính mình một thời hào hùng oanh liệt của dân tộc: Đủ cho ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa của toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều mà nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng trong vòng xoáy lo toan và mưu tính.

Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai. Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là nối tiếp những điều cha ông chúng ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?

Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ cuối bài thơ là sự “giật mình” của con người, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta.

Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 2

Nghệ thuật chân chính phải có sứ mệnh như một thiên thần hộ mệnh giúp nâng đỡ con người, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có sức mạnh như thế. Bài thơ như một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Đặc biệt là khổ cuối của bài đã gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng, suy ngẫm, đưa ta tới những chiều sâu của suy tưởng, triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.”

Vầng trăng chính là hình tượng theo ta xuyên suốt cả bài. Ở những khổ trước, nhà thơ đã mở ra hoàn cảnh khu phố mất điện để cho con người đối diện trực tiếp với vầng trăng, để những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ như lớp lớp sóng mạnh mẽ ùa về. Kết thúc bài thơ, hình ảnh ấy hiện về càng tươi đẹp, càng gắn bó bao nhiêu thì nhân vật trữ tình lại càng trăn trở, càng tự trách mình bấy nhiêu. Vầng trăng tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, cũng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. Trăng vẫn sáng, vẫn đẹp, quá khứ vẫn vẹn nguyên tình yêu thương dù cho con người có vô tâm, hờ hững, lãng quên đi vầng trăng, lãng quên đi quá khứ tươi đẹp. Nhưng đằng sau sự vô tình ấy, ta nhận ra một tâm hồn thật đẹp. Nhân vật trữ tình không hẳn là người vô tâm, chỉ là đôi khi đã bị cuộc sống bộn bề, nỗi lo cơm áo gạo tiền cuốn theo vòng xoáy của nó. Sự lãng quên chỉ là trong khoảnh khắc, để rồi khi được vầng trăng soi chiếu, nó lại sống dậy mạnh mẽ như xưa.Vầng trăng tươi đẹp chỉ là sự gợi mở để nhà thơ tự vấn chính mình:

“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

“Im phăng phắc” là sự lặng yên tuyệt đối, không mảy may lay động. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng trở thành một người bạn gần gũi, gắn bó. Trăng chẳng hề lên tiếng trách cứ con người một lời. Sự im lặng vì thế càng trở nên đáng sợ. Trăng bao dung, độ lượng nhưng vẫn không kém phần nghiêm khắc. Trăng đã trở thành tòa án lương tâm, trở thành tấm gương phản chiếu để từ đó con người nhận ra những giá trị bị quên lãng, nhận ra phần vô tâm, hờ hững trong chính mình. Cái giật mình ở đây thật đáng quý, cái giật mình của một con người biết suy nghĩ, có nhân cách. Giật mình vì ân hận, xót xa. Giật mình vì quên đi bao tình cảm ân nghĩa, tốt đẹp khi xưa. Cái giật mình đã giúp nhân vật trữ tính đứng vững trước những cám dỗ trong cuộc sống. Cái giật mình ấy rất cần có trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi chúng ta mải theo đuổi những giá trị vật chất, tiền tài danh vọng mà hờ hững, vô tâm với những giá trị bình dị nhưng vĩnh hằng, sâu sắc. Cả bài thơ là vô nhân xưng, nhưng đến đây là nhà thơ xưng là “ta”. Ta là nhà thơ, ta cũng có thể là tất cả mọi người. Năm xưa, trong cảnh đất nước có chiến tranh, người lính gắn bó với bè bạn thân yêu, sống trong vòng tay yêu thương che chở của nhân dân lao động thì nay, khi đất nước đã hòa bình, nhà thơ lên tiếng nhắc nhở, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ của ông không được phép lãng quên quá khứ và những tình cảm cao đẹp khi xưa. Không có quá khứ sẽ không có chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, mỗi người hãy biết trân trọng quá khứ, lấy quá khứ là điểm tựa, là sức mạnh để vươn tới cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.

Với thể thơ năm chữ, những chữ đầu dòng không viết hoa từ chữ đầu tiên ở mỗi khổ, Nguyễn Duy đã rất thành công khi mượn hình tượng ánh trăng để nói lên bài học nhân sinh sâu sắc: mỗi chúng ta hãy có những giây phút lắng lòng để nhìn lại quá khứ, đừng bao giờ quên đi quá khứ để rồi phải ân hận, xót xa.

Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, để lại những vang âm còn mãi trong lòng người đọc. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi là lời nhắc nhở theo chúng ta trên từng chặng đường đời, để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh – mẫu 1

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, một người cha kính yêu của nhân dân đồng thời cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc. Các tác phẩm của Người hầu hết đều viết về cuộc sống gian khổ nhưng lại toát lên tinh thần yêu đời lạc quan vô cùng. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu chính là bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” . Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc với bạn đọc trong nước và cả ngoài nước.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức. Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Cuộc sống sinh hoạt và làm việc đã khiến Bác có cảm hứng sáng tác nên bài thơ này. Hai câu thơ đầu tiên của bài như miêu tả lối sống và nếp sinh hoạt của Bác: “Sáng ra bờ suối tối vào hang”. Câu thơ bảy chữ với phép đối “ sáng ra”-“ tối vào” đã giúp chúng ta thấy được nếp sinh hoạt đều đặn của Bác. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi buổi sáng là Bác sẽ ra ngoài để làm việc chính sự còn đến tối là trở vào hang để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Mặc dù công việc vô cùng bận rộn và căng thẳng nhưng chúng ta thấy ở Người toát nên một niềm lạc quan yêu đời, sống hòa nhập với thiên nhiên núi rừng. Do cuộc sống và làm việc khó khăn nên bữa ăn của Bác cũng vô cùng đạm bạc: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” và “rau măng” là hai món ăn vô cùng đơn sơ giản dị và là những món ăn quen thuộc ở núi rừng Tây Bắc. Bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh của mình, Bác đã cho thấy được sự vui vẻ hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù là Người lãnh đạo cả dân tộc trong kháng chiến, đóng vai trò vô cùng quan trọng với đất nước nhưng Người không hề than vãn gì về hoàn cảnh sống của mình mà ngược lại có tỏ ý hài lòng về những thứ mình đang sử dụng. Sự hy sinh đó của Bác khiến cho chúng ta không thể không cảm phục và ngưỡng mộ con người này.

Hai câu thơ sau công việc và quan điểm của Bác về cuộc đời cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Từ láy “chông chênh” đã giúp người đọc hình dung chiếc bàn làm việc của Người không hề đứng vững chãi là lại khập khiễng bên thấp bên cao. Nơi làm việc của Người chỉ gói gọn trên một chiếc bàn cũ không vững nhưng dù hoàn cảnh làm việc khó khăn bao nhiêu thì Người lại càng quyết tâm bấy nhiêu. Bác đã không ngại khó khăn gian khổ để làm việc phục vụ sự nghiệp giải phóng đất nước. Với Người đó là niềm hạnh phúc không thể nào nói hết được và chính vì vậy mà Người đã cho rằng “cuộc đời cách mạng thật là sang”. Chỉ một câu thơ thôi đã cho thấy tinh thần thép và tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến của Người.

Như vậy chỉ với bốn câu thơ ngắn, bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh, Bác Hồ đã tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt và làm việc của mình đầy gian khổ khó khăn nhưng qua đó toát lên tinh thần lạc quan, niềm tin vào tương lai tương sáng của Người. Người đúng là vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam!

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh – mẫu 2

Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường đi cho cách mạng nước nhà đến năm 1941 Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Giữa lúc này tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển to lớn. Tại đây Người đã triệu tập cuộc họp bộ chính trị quan trọng để tính toán đường đi nước bước cho cách mạng. Nơi ở của Người là hang Pác Bó. Và bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng ra đời trong chính hoàn cảnh đó.

Hang Pác Bó hay còn có tên gọi khác là Cấn Bó nghĩa là đầu nguồn. Sau khi về nước Bác chủ yếu sinh sống và làm việc tại đây, nơi có điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn vất vả.

Kể lại những ngày tháng đó Đại tướng Võ Nguyễn Giáp từng có chia sẻ: “ Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng là nơi có địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và sâu trong rừng bên ngoài là những cành lau. Những khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng Người thức dậy thấy con rắn rất lớn nằm khoanh tròn cạnh người. Sức khỏe Người vì thế có phần giảm sút. Bệnh sốt rét diễn ra liên miên cũng không có thuốc trị chỉ có vài cành lá sắc theo mẹo của người dân địa phương.

Có thời gian chuyển sang vùng Mán Trắng gạo cũng chẳng có ăn Bác và các đồng chí phải ăn cháo bẹ cả tháng ròng rã. Thế nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác cũng thích ứng rất nhanh chưa bao giờ kêu khó ngại khổ. Thậm chí còn thấy Bác vui hơn bao giờ hết vì cuối cùng sau bao nhiêu năm xa quê hưng Người đã được trở về sống với lí tưởng vĩ đại của dân tộc, với cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

Chẳng vì thế mà bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó được viết với một tâm thế vui đùa hóm hỉnh, vui tươi. Ngoài việc nêu lên một hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn khắc nghiệt đằng sau đó còn là cả một trạng hết sức thoải mái và lạc quan phơi phới.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi toát lên sự nhịp nhàng nề nếp theo một quy luật nhất định. Sáng ra bờ suối tối lại vào. Thể hiện một giờ giấc sinh hoạt rất đều đặn của Người.

Cháo bé rau măng vẫn sẵn sàng

Nếu câu thơ thứ nhất nói về quy luật sinh hoạt thì câu thơ thứ hai lại nói về bữa ăn của Bác. CHỉ có cháo bẹ và rau măng. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản thì thức ăn ở đây như cháo bẹ và rau măng lúc nào cũng sẵn sàng. Còn nếu muốn hiểu theo cách khác có thể hiểu là dù trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần cách mạng luôn luôn sẵn sàng. Tuy nhiên đối chiếu với nét vui đùa hóm hỉnh ở trên thì có lẽ cách hiểu thứ nhất có vẻ hợp lí hơn rất nhiều.

Câu thơ thứ nhất nói về sinh hoạt, thì câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về cong việc. Cả ba câu thơ đều là những câu thơ miêu tả cuộc sống chân thực tạo nên một sự hài hòa cho tứ thơ.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

ở đây ta cần chú ý đến cách gieo vần độc đáo của Người. Gieo vần ang vừa khỏe khoắn lại vừa tạo được tiếng vang xa tạo nên một cảm giác vô cùng vững vàng và vững chắc. Từ láy chông chênh là từ lấy duy nhất trong bài nhưng không hề tạo nên một thế khấp khiểng thiếu vững chắc mà ba chữ cuối “Dịch sử Đảng” với những âm chắc nịch khỏe khoắn và gân guốc như làm hài hòa cả ba câu thơ.

Đến câu thơ này ta cũng có thể đoán ra chủ thể của bài thơ là ai và làm công việc gì. Đó không phải là một vị khách lâm tuyền an nhàn mà là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại mang tính vận mệnh của quốc gia dân tộc. Chủ thể không hề bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của tất cả. Hơn thế nữa nó còn tô đậm hình tượng người chiến sĩ Cách mạng giữa một khung cảnh đơn sơ giản dị cũng giống như sự nghiệp cách mạng vậy.

Bài thơ khép lại bằng hình cảnh:

“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” có thể coi là đắt giá nhất trong bài. Đó chính là cảm nhận xuất phát từ trái tim của người chiến sĩ cách mạng. Với Người dù bao khó khăn gian khổ cũng chẳng là gì bởi đã dấn thân vào con đường này thì không bao giờ biết sờn lòng nản chí. Cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng nay đây mai đó nhưng vẫn luôn làm chủ hoàn cảnh và cuộc đời. Chữ sang cũng chính là chốt làm bừng sáng giá trị của toàn bài.

Có thể nói Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm vô cùng giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Nó mang tính thời đại và vận mệnh lớn. Không hề xa hoa ở câu chữ nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm nhận vô cùng độc đáo và thoải mái.

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng – mẫu 1

Ta-go là nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ. Ông là người châu Á đầu tiên được giải nô ben văn học. Gia tài ông để lại vô cùng đồ sộ và phong phú. Trong đó bài thơ mây và sóng được xem là một kiệt tác được in bằng tiếng anh trong tập in măng non.

Bài thơ gồm có 2 phần đó là rủ rê em bé sống trên mây và rủ rê em bé sống trên sóng. Qua đó thể hiện được vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ. Đây là bài thơ trữ tình nó như một khúc hát đồng dao và qua đây ta bắt gặp câu chuyện kể của em bé đối với mẹ về người trên mây và người trên sóng đã mời mọc rủ rê em bé đi chơi. Trước hết là lời của người trên mây: "Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vầng trăng bạc". Tác giả hình dung ra em bé ngước mặt lên bầu trời cao và em bé lắng nghe lời nói trên 9 tầng mây cao vời vợi ấy. Mây đã được nhân hóa ta tưởng tượng ra lời nói rủ rê mời mọc rất thân tình. Và mây đã trở thành đối tượng giao tiếp lúc này. Lời rủ của mây hết sức là hấp dẫn "được chơi từ sáng sớm cho đến chiều tà. Lời rủ quá lôi cuốn khiến cho cậu bé phải hỏi lại: Nhưng làm thế nào mình lên đó được! Người sống trên mây đã bày vẽ em bé hãy đi đến tận cùng của thế giới. Đưa tay lên trời cậu sẽ được nhấc bổng lên 9 tầng mây. Chúng ta gặp cả 1 bức tranh thiên nhiên đẹp nào là bình minh vầng trăng bạc, là nơi tận cùng trái đất. Đưa tay lên sẽ có người nhấc bổng lên 9 tầng mây. Qua bức tranh này chúng ta cảm nhận được cả 1 không gian bao la của trời cao đối với trẻ thơ. Không gian ấy là thế giới thần tiên thường chỉ gặp trong truyện cổ tích hay nó chỉ ở trong mơ của trẻ thơ. Lời rủ đầy hấp dẫn của mây có phải chăng là ước muốn của trẻ em được đi đến tận cùng trái đất được bay bổng lên trời được khám phá thiên nhiên đầy bí ẩn. Qua những vần thơ ta thấy Ta go phải là nhà thơ rất yêu thiên nhiên rất yêu trẻ em và có tâm hồn rất trẻ thì mới thể hiện được những ước mơ diệu kì đến như vậy. Thơ Ta go là bài ca về tình nhân ái thể hiện khát vọng hạnh phúc tự do. Không chỉ có vậy em bé không chỉ có ước mơ được bay lên tận cùng trái đất mà muốn chu du khắp đại dương. Lời rủ của người sống trên sóng còn hấp dẫn hơn: Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nào. "Ta hình dung em bé đang đứng trước bờ biển đại dương với em bé là vô cùng bao la vô tận.

Video bài văn mẫu Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng

Cho nên em bé đã hỏi làm thế nào mình ra ngoài ấy được. Đại dương đã trả lời "hãy đến rìa biển cả con sẽ được sóng nâng đi. Chúng ta lại thấy cả một thế giới cổ tích đầy hấp dẫn. Đứng ngoài biển nhắm mặt lại thì sóng sẽ nâng đi Tago dẫn chúng ta bước vào thế giới cổ tích thế giới của thiên nhiên đầy kì lạ Và ta thấy được sự giao cảm của tâm hồn trẻ thơ với bức tranh thiên nhiên. Không chỉ cả trời rộn rã còn có đại dương mênh mông Tất cả đều hấp dẫn và ta tưởng tượng rằng em bé sẽ quên tất cả sau lưng mình và đi theo người sống trên mây người sống trên sóng. Thế nhưng làm sao có thể rời mẹ mà đi được. Mẹ đã níu chân em ở lại bằng "buổi chiều mẹ luôn một mình ở nhà làm sao rời mẹ mà đi được". Thế giới thiên nhiên bí ẩn hấp dẫn thật đấy! nhưng còn 1 thứ hấp dẫn hơn nữa là mẹ. Chúng ta thấy thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn nhưng vẫn không bằng thế giới tình mẹ con. Để từ đó trong bài thơ Mây và sóng Tago dẫn chúng ta đến giấc mơ tuyệt vời của tuổi thơ đó là sự sáng tạo trong trò chơi của em bé. Trước hết con là mây và mẹ sẽ là trăng. Con là sóng mẹ sẽ là bến bờ kì lạ. Cái độc đáo trong trò chơi này là có mây là có trăng. Trăng và mây chung 1 bầu trời. Mây và trăng luôn kề cận bên nhau. Có sóng là có bờ sóng vỗ về vào bờ như mẹ vỗ về con vào lòng mẹ. Em bé gọi đây là trò chơi nhưng thật ra không phải là trò chơi đây chính là tình cảm của con đối với mẹ, ước mơ được ôm ấp trong lòng mẹ và mẹ không bao giờ rời xa.

Cả bài thơ cho ta thấy sự giao cảm thần tiên của em bé với thiên nhiên tuyệt đẹp. Cả bài thơ ta thấy được bức tranh về thiên nhiên. Cả bài thơ ta thấy được sự sáng tạo của em bé trong trò chơi để vừa được chơi vừa được gần mẹ. Từ vẻ đẹp mộng mơ ấy bài thơ đã có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Trước hết là tác giả đã ca ngợi tình mẹ bao la vĩ đại. Nét độc đáo thứ hai là Tago đã dẫn ta đến thế giới thần tiên với những ước mơ bay bổng kì diệu với tuổi thơ.

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng – mẫu 2

Bài thơ “Mây và sóng” được viết bằng chữ Ben-gan in trong tập thơ “Si-su” (trẻ thơ) xuất bản năm 1909 và được chính Ta go dịch sang bằng tiếng anh trong bản “trăng non” xuất bản năm 1909. Bài thơ nói lên vẻ đẹp mộng mơ nên tiên cảnh trên mây và dập dềnh nơi sóng lớn biển khơi. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng và đẹp đẽ.

Tago để lại một kho tàng văn hóa đồ sộ với 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, khoảng 100 truyện ngắn và nhiều tác phẩm tranh thơ nổi tiếng, ông là nhà thơ đầu tiên nhận giải Nô ben về văn học. Bài thơ là lời mời gọi của những người sống trên mây trong sóng. Trước hết là thông qua lời mời gọi của những người sống trên mây: “bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vần trăng bạc”. Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa, ví mây giống như người bạn, mây có thể giao tiếp được với cậu bé, tác giả đang tưởng tượng ra rằng, cậu đang ngồi và ngước mặt nhìn lên trời, ở đó có 9 tầng mây đẹp đẽ, đang cùng trò chuyện với cậu. Lời mời gọi nghe quá ư là hấp dẫn, nào là “lên đây thì được chơi từ sáng sớm đến chiều tối” nhưng có điều là làm sao cậu có thể lên đó được, cậu là người phạm mắt trần da thịt mà. Như hiểu được ý cậu bé, trời bày cho cậu hãy đi tới nơi cuối của thế giới, ở đó cậu sẽ trời trời nhấc bổng lên 9 tầng mây. Một bức tranh thơ mộng như xứ thần tiên được hiện ra trước mắt ta, ở đó có mây vàng bạc,không gian trời đất bao la, lời ru rê của em có phải chăng là ước muốn được khám phá, được tìm tòi những gì bí ẩn và thú vị của trời đất hay không. Tago là một nhà thơ vừa yêu thiên nhiên vừa yêu trẻ thơ vì thế bài thơ Tago dành cả tình yêu của mình để sáng tác, đưa những ước mơ hồn nhiên nhưng rất đỗi tuyệt đẹp thành hiện thực. thơ của Tago thể hiện tình yêu, tình nhân ái, khát vọng được tự do, hạnh phúc. Ước mơ không chỉ dừng lại ở việc vi vu khắp cả trái này mà còn muốn thám hiểm hết thảy đại dương bao la này.

Do vậy mà cậu bé đã hỏi đại dương rằng làm sao để ra ngoài ấy được. Đại dương bèn trả lời cho cậu bé rằng: “Hãy đến rìa biển cả con sẽ được sóng nâng đi”. Một cảnh vật hấp dẫn diễn ra trước mắt chúng ta giống như truyện cổ tích vậy, chỉ cần đến đứng ngoài biển nhắm mắt lại và “sóng” sẽ mang bạn đi, thiên nhiên như hòa vào giấc mơ của tâm hồn trẻ thơ. Bầu trời thì rộn ràng, đẹp đẽ, đại dương thì mênh mông, bao la. Nhưng tất cả điều đó không thể khiến em rời bỏ mẹ mà đi được, mẹ đã níu chân em “ buổi chiều mẹ luôn một mình ở nhà làm sao rời mẹ mà đi được”. đối với cậu bé thế giới thiên nhiên thật tuyệt vời và hấp dẫn, nhưng còn thứ cậu thấy hấp dẫn và thú vị hơn đó mẹ, người đã sinh thành, nuôi dưỡng cậu từ lúc cậu còn ở trong bụng của mẹ vậy, thế giới thiên nhiên dù có hấp dẫn tới đâu đi chăng nữa thì đối với cậu bé hay mỗi người chúng ta mẹ mới là điều chúng ta cần níu giữ và kính trọng nhất. Tago dẫn chúng ta đi từ câu chuyện trẻ thơ này đến câu chuyện trẻ thơ khác bằng chính tâm hồn của một đứa bé. Cậu sáng tạo ra những trò chơi mà ở đấy vừa có mây, sóng mà quan trong là có mẹ: con là mây thì mẹ sẽ là trăng, con là sóng thì mẹ sẽ là bến bờ kỳ lạ bên kia, mây và trăng sẽ cùng chung một bầu trời, sóng và bờ biển sẽ không bao giờ tách rời nhau. Sóng vỗ về xô vào bờ giống như mẹ luôn vỗ về con vậy. Đây là trò chơi nhưng trò chơi này đã vượt lên giới hạn của nó, nó chính là tình cảm thiêng liêng về tình mẫu tử, luôn muốn được mẹ ôm ấp và vỗ về, không bao giờ muốn xa rời mẹ dù chỉ giây phút thôi. Bài thơ chính là sự hòa hợp đến lạ lùng của thiên nhiên tuyệt đẹp và cậu bé đáng yêu này. Bài thơ nói về tình yêu da diết, nồng thắm đã chiến thắng được ham muốn chơi bời, sự cám dỗ. Sự níu kéo này chính là tình mẫu tử thiêng liêng và đẹp đẽ. Bài thơ nói về một cậu bé thông minh, giàu tính tưởng tượng khát khao khám phá thế giới và được gần bên mẹ.

Qua bài thơ ta hiểu ra rằng con người trong cuộc sống thường gặp những cám dỗ, quyến rũ. Muốn khước từ chúng, cần phải một bờ tự vững chãi mà tình mẹ à một trong những điểm tựa ấy. Bài thơ đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của trẻ thơ song cũng nhắc nhở mọi người rằng. Hạnh phúc không phải điều gì quá xa xôi, không ai ban cho mà do trần thế và con người nơi đó tạo ra.

Lấy nhan đề Tình đời trong chiếc lá, nêu suy nghĩ của mình về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng – mẫu 1

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Những câu thơ vang lên như lời khẳng định về mối quan hệ giữa con người với con người, về sự chia sẻ và hi sinh. Phần cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri cũng khiến ta rung cảm trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ với nhau giống như thế.

Tác phẩm là câu chuyện kể về sự thay đổi của Giôn-xi, một nữ họa sĩ trẻ tuổi. Là một người có tài, khao khát được sống hết mình với nghệ thuật. Thế nhưng căn bệnh sưng phổi và sự nghèo túng đã khiến cô tuyệt vọng và không muốn sống nữa. Giôn-xi đã sống một chuỗi những ngày đen tối, không niềm tin, không hi vọng thậm chí là tàn nhẫn với những người yêu quý cô khi đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ đến khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô cũng buông xuôi, lìa đời. Câu chuyện có lẽ đã dừng lại với cái chết được dự báo trước của Giôn-xi khi trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng suốt cả đêm qua, khiến cho những cây thường xuân cũng rã rời, lá của chúng sẽ rụng hết xuống. Nhưng không, vẫn còn một chiếc lá cuối cùng trên cây, được tác giả miêu tả “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”. Chiếc lá ấy vẫn kiên cường bám chặt vào cành cây cách mặt đất khoảng chừng hai mươi bộ, hôm sau, hôm sau nữa chiếc lá ấy vẫn như thế. Từ một con người tuyệt vọng chỉ chực chờ chết, hình ảnh của chiếc lá thường xuân kiên cường đã làm thay đổi suy nghĩ của Giôn-xi, cô khao khát được sống và mong mỏi “một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”. Điều ấy cũng có nghĩa, chiếc lá cuối cùng đã khiến cho tâm hồn một con người hồi sinh, khiến cho cô gái sống lại với khao khát và đam mê nghệ thuật của mình. Cuối cùng thì Giôn-xi cũng qua cơn nguy hiểm và dần dần khỏe trở lại.

O Hen-ri đã sử dụng rất nhiều tình tiết hấp dẫn, sự sắp xếp chặt chẽ khéo léo và kết cấu đảo ngược tình huống hai lần khiến cho người đọc đi hết từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Hóa ra, chiếc lá cuối cùng kiên cường bám trụ lại trên cành ấy lại là “kiệt tác của cụ Bơ-men”. Hóa ra, người ốm yếu, tuyệt vọng bên bờ vực của cái chết lại đang dần khỏe lại, còn người khỏe mạnh như cụ Bơ-men lại chết vì sưng phổi, dù mới chỉ ốm có hai ngày. Điều đáng nói ở đây chính là tinh thần hi sinh cao cả của cụ Bơ-men, một người họa sĩ già với khao khát cả cuộc đời là “vẽ được một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được”, cụ đã đánh đổi cả mạng sống của mình níu giữ tâm hồn và sự sống cho cô họa sĩ trẻ Giôn-xi. Xiu đã kể lại với Giôn-xi về cụ Bơ-men một cách đầy xúc động “...cụ ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt...người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắm sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau...”. Bức tranh của cụ đã làm thức dậy khao khát sống cũng đã khơi dậy trong lòng người đọc sự thương cảm, trân trọng với nghĩa cử cao đẹp của cụ Bơ-men. Đến tận giây phút cuối cùng của cuộc đời, cụ vẫn sống với đam mê hội họa của mình. Và phải chăng, chính vì câu chuyện đầy tình người đằng sau bức họa chiếc lá cuối cùng ấy đã biến nó thành một kiệt tác đúng như di nguyện của cụ Bơ-men lúc còn sống. Nghệ thuật suy cho cùng cũng là cách khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn, khiến con người thay đổi và sống tốt hơn. Và, cụ Bơ-men đã mang tình người để làm nên giá trị vĩnh hằng cho tác phẩm cuối cùng - kiệt tác trong cuộc đời họa sĩ của mình.

Có thể nói, đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trích trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri đã khiến người đọc rung động trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ, giữa Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men. Câu chuyện ấy cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng lương thiện, sự chia sẻ giữa người với người trong xã hội ngày nay.

Lấy nhan đề Tình đời trong chiếc lá, nêu suy nghĩ của mình về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng – mẫu 2

Người phụ nữ bất hạnh bất lực trên giường bệnh, bất động trên chiếc giường sắt sơn, tạo ra ấn tượng về bức tranh được đóng khung treo tường. Không gian trở nên hẹp hơn sự vật đi vào chiều tĩnh lặng. Duy đôi mắt người bệnh có dấu hiệu sự sống, song đôi mắt ấy cứ trân trân nhìn cái đầu hồi nhà gạch bên cạnh đếm từng chiếc lá trường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đó là biểu tượng của chiếc thước đo về cuộc đời của Giôn-Xi: Cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất hạnh: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống.

Câu chuyện của Giôn-xi, được Xiu cô bạn lớn tuổi hơn là người đang cưu mang Giôn-xi, nói lại với cụ Bơ-men. Cụ là một hoạ sĩ nhưng là một người thất bại trong nghệ thuật. Bởi lẽ "cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn chưa với tới được gấu áo vị nữ thần của mình". Nhưng cụ "luôn có ý định vẽ một bức tranh tuyệt tác", cho dù "cụ chưa bao giờ bắt đầu cả". Cụ kiếm tiền bằng cách "bôi bác một ngành buôn bán hay quảng cáo", hoặc "ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ". Dù vậy cụ vẫn luôn luôn nói về "tác phẩm kiệt tác sắp đến tới". Điều đáng quý ở cụ là hay "chế nhạo sự mềm yếu của bất kì ai" và tự coi mình "là một con chó xồm lớn chuyên canh gác cửa bảo vệ cho hai nữ hoạ sĩ trẻ" Giôn-xi và Xiu.

Câu chuyện về cuộc đời yếu đuối và mong manh như chiếc lá giữa cơn phong ba của Giôn-xi đã được cụ Bơ-men tiếp đón bằng sự "khinh bỉ và nhạo báng". Song bất chấp thái độ của cụ già, căn bệnh của Giôn-xi vẫn không hề thuyên giảm. Và cụ già "nhỏ bé dữ tợn" đã hứa một cách trịnh trọng qua mùi rượi "sặc sụa": "Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất...".

Một ngày mới lại về Giôn-xi "thều thào và ra lệnh" kéo chiếc màn xanh để cô ta nhìn ra ngoài, cho dù Xiu không muốn và phải" làm theo một cách chán nản". "Nhưng, ô kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc là thường xuân bám trên tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây... Chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ".

Hôm sau "chiếc lá thường xuân vẫn còn đó". Và Giôn-xi chợt hiểu ra: "Có một cái gì đấy làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cô thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội". Và hi vọng một ngày nào đó "sẽ được vẽ vịnh Na-plơ" lại trỗi dậy trong cô. Nhựa sống lại lên men, nghị lực mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: "Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã chiến thắng." Điều gì đã khiến Giôn-xi khoẻ lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy có hiệu lực, có thể có một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Hẳn là thế, nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dần về cõi hư vô là chiếc lá cuối cùng trên bức tường đối diện phòng với họ "chẳng bao giờ rung rinh và lay động khi gió thổi", bởi đó là chính kiệt tác của cụ Bơ-men, cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Để tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã đổi bằng cuộc sống của chính mình. Cụ đã trả lại màu xanh cho chiếc lá vàng úa, trả lại màu hồng cho đôi má người thiếu nữ, xanh xao, trả lại niềm tin nghị lực cho người yếu đuối.

Nghệ thuật chân chính mang trong nó chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin vào cuộc sống, nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ. Vì thế, hình tượng cụ Bơ-men cho dù chỉ phác hoạ, nhưng vẫn sống mãi trong lòng người đọc bởi cụ đã tạo ra kiệt tác bằng màu xanh hi vọng, bằng chất liệu nhân đạo truyền thống được kết tinh trong tiến trình lịch sử. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng hồi sinh.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 1

Nhắc đến nhà văn Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là ta nhớ đến tiểu thuyết "Tắt đèn", là ta nghĩ đến thân phận chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương chồng, thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Nhà văn Ngô Tất Tố đã xây dựng nhân vật chị Dậu tiêu biểu cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà quê trước năm 1945. Cảnh Tức nước vỡ bờ trong Tắt đèn đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật Dậu.

Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương. Chị phải bán gánh khoai, bán ổ chó và đứt ruột bán đứa con gái lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế, mới đủ nộp suất sưu cho chồng. Nhưng anh Dậu vẫn bị trói ở sân đình, vì còn thiếu một suất sưu nữa. Chú Hợi là em ruột anh Dậu, chết từ năm ngoái nhưng chết cũng không trốn được sưu nhà nước nên gia đình anh Dậu phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đang ốm nặng, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu đi như chết. Bọn cường hào cho tay chân vác anh Dậu rũ rượi như cái xác đem đến trả cho chị Dậu. Đau khổ, tai họa chồng chất đè nặng lên tâm hồn người đàn bà tội nghiệp.

Không thể không khẳng định, chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương.Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm mọi cách cứu chồng. Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên. Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, thiết tha mời chồng: thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Lời người đàn bà nhà quê mời chồng ăn cháo lúc hoạn nạn, chứa đựng biết bao tình thương yêu, an ủi vỗ về. Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu rồi xuống cạnh chồng cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ đối với người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào đe doạ! Chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng. Bọn cai lệ và tên hầu cận lý trưởng, lũ đầu trâu mặt ngựa với tay thước, roi song, dây thừng lại sầm sập xông vào nhà chị Dậu thét trói kẻ thiếu sưu. Anh Dậu vừa run rẩy kề miệng bát cháo, nghe tiếng thét của tên cai lệ, anh đã lăn đùng xuống phản! Tên cai lệ chửi bới một cách dã man. Hắn gọi anh Dậu là thằng kia hắn trợn ngược hai mắt quát chị Dậu: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin ông trông lại. Tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên: Đùng đùng, (…) giật phắt cái thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình. Chị Dậu van hắn tha cho… thì hắn bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị, rồi nhảy vào cạnh anh Dậu. Một ngày lạ thói sai nha – làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền (Nguyễn Du). Để tróc sưu mà tên cai lệ, "kẻ hút nhiều xái cũ” đã hành động một cách vô cùng dã man. Mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn, hơn nữa, để bảo vệ tính mạng của chồng, bảo vệ nhân phẩm của bản thân, chị Dậu đã kiên quyết chống cự: chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Không thể lùi bước, chị Dâu đã nghiến hai hàm răng thách thức: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!"

Tư thế của chị Dậu có một bước nhảy vọt. Từ chỗ nhún mình tự gọi là cháu, gọi tên cai lệ bằng ông y sau đó là mày. Chị đã vỗ mặt hạ uy thế và hạ nhục chúng! Hai kẻ đốc sưu định trói kẻ thiếu sưu nhưng chúng đã bị người đàn bà lực điền trừng trị. Tên cai lệ bị chị Dậu túm lấy cổ y ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất! Tên hầu cận lý trưởng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Với chị Dậu, nhà tù của thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ. Trước sự can ngăn của chồng, chị Dậu vẫn chưa nguôi giận: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…" . “Con giun xéo mãi cũng quằn” và  chị Dậu cũng vậy, bị áp bức dã man, tính mạng bị đe dọa, chị đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một nhận xét rất thú vị rằng trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…Ngô Tất Tố rất hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và tên hầu cận một bài học đích đáng. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội: “Có áp bức có đấu tranh”.

Cảnh “Tức nước vỡ bờ” rất sống động và giàu tính hiện thực. Đoạn văn như một màn bi hài kịch, xung đột diễn ra căng thẳng đầy kịch tính. Hình ảnh chị Dậu được miêu tả rất chân thực. Chị giàu lòng thương chồng, vừa rất ngang tàng, cứng cỏi. Chị hạ nhục tên cai lệ là mày, tự xưng là bà. Cái nghiến hai hàm răng, cái ấn dúi, cái túm tóc lẳng một cái và câu nói: “Thà ngồi tù…” đã nêu cao tầm vóc lớn lao đáng kính phục của chị Dậu, một người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ. Từ hình ảnh Cái cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non đến hình ảnh chị Dậu trong Tắt đèn, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí.Câu nói đầy vẻ thách thức cùng với hành động quyết liệt vừa là một câu biểu hiện của lòng thương yêu chồng, vừa cho thấy sự dũng cảm, tinh thần đấu tranh quyết liệt của chị.  Rõ ràng là "tức nước bờ"!  Câu nói đầy khí phách của chị Dậu "Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được" biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa từ lâu. Bao nhiêu nỗi tủi nhục bấy lâu chị cam chịu, giờ đây không dằn được nữa, nhất là chúng đã cố tình hành hạ anh Dậu. Chị đã lấy thân che chở cho chồng mà cũng không yên, cuối cùng chị đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi của lòng căm thù.

Tức nước vỡ bờ miêu tả một quá trình tâm lý. Ngô Tất Tố đã tạo ra một tình huống giàu kịch tính để rồi cứ thế nhân vật chính va chạm với những tính cách khác từ đó bộc lộ phẩm chất của mình. Quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu diễn ra nhanh chóng nhưng tinh tế. Đặc biệt nó rất phù hợp với quy luật phát triển tính cách cũng như hoàn toàn phù hợp với phẩm chất con người nhân vật. Đó là một sự thể hiện có tính toán và rất sắc sảo của nhà văn.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 2

Trong nền văn học hiện thực phê phán thời kì 1930-1945 không thể không nhắc tới những cái tên các tác giả nổi bật như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Và có lẽ chúng ta không thể nào quên được hình ảnh chị Dậu - điển hình của người phụ nữ thời kì đó.

Đó là hình ảnh một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng con, mang nặng đức hi sinh nhưng không còn sự yếu đuối nhu nhược của người phụ nữ thời kì phong kiến mà đã có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại những thế lực luôn chèn ép, bắt buộc những người nông dân thời kì bấy giờ, do đó có lẽ đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn đắt giá nhất trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lòng người đọc cho tới tận hôm nay.

Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man.

Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mức giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng luôn hết lòng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra dành cho người đàn ông trong gia đình.

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ năm ngoái.

Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dằn lòng, cố gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn. Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng: "Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được.

Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không. Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. Và có lẽ chính tình yêu thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bức đường cùng hoàn cảnh của anh chị.

Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi bất cứ trận đánh nào nữa. Anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ: "Hai ông làm phúc nói với ông Lý xin cho cháu khất”. Chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác mà thôi.

Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. Thế nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin: "Cháu xin ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát.

Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng.

Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. Đến lúc này, chị Dậu đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra, hai tay chống nạnh nói “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Đúng như câu nói “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé, hèn kém, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà - mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị.

Chị lao vào những tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo vệ những người thân yêu xung quanh mình, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc vào bức đường cùng.

Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép buộc. Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói: "Trên cái tối trời, tối đất của xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…”.

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh đầy màu sắc hiện thực của xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng. Cùng với nó, hình ảnh chị Dậu cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hòa hai tính cách khác nhau, đối với những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sàng hi sinh bất cứ điều gì, thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng chúng. Đó cũng có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả về khí chất và tính cách. 

Tài liệu có 10 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống