Top 20 bài Phân tích Tây Tiến 2023 hay nhất

5 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích Tây Tiến hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Phân tích Tây Tiến

Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến - Mẫu 1

I. Mở bài

- Trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).

- Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ.

II. Thân bài

1. Một số nét khái quát

- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.

- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

2. Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc

- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

  • Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
  • Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên ... dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
  • Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
  • Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
  • Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
  • Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.

- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông ...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.

- Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

3. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:

  • Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
  • Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

  • Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
  • Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.

4. Hình tượng người lính Tây Tiến

- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

  • Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
  • Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

- Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

5. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả

- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.

- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

III. Kết bài

- Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.

Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2

Mở bài: 

- Giới thiệu vài nét về tác giả Quang Dũng

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Tây Tiến

Thân bài:

- Khái quát chung về bài thơ Tây Tiến

  • Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên đường hành quân
  • Kỉ niệm tình quân dân gắn bó, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
  • Bức chân dung người lính Tây Tiến
  • Lời hẹn ước, lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây Bắc

- Đánh giá về nghệ thuật

  • Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng
  • Sáng tạo độc đáo về hình ảnh, ngôn từ và giọng điệu

Kết bài: 

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Nếu một vài suy nghĩ, cảm xúc của em về bài thơ.

Sơ đồ tư duy phân tích Tây Tiến

Top 25 bài Phân tích Tây Tiến hay nhất (ảnh 2)

Top 25 bài Phân tích Tây Tiến hay nhất (ảnh 3)

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 1

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông – Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.

Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.

Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi Nhớ chiếu bạn trải

Nhớ chăn bạn nằm”

Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông...- địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Top 25 bài Phân tích Tây Tiến hay nhất (ảnh 4)

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gập lại:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”

“Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao

Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội

Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”

8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.

Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.

Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)

Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói rơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn... Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.

Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác bên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ”Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”

Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân“

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của Dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông Á.

Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”. Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.

Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 2

Quang Dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng!

"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.

"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".

Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai điểm nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

Những Sài Khao, Mường Lát những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong "sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: "Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao " ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: "Nha ai Pha Luông mưa xa khơi".

Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".

Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa",. vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời!", nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ…" như vậy!

Video bài giảng: Tây Tiến

Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác. Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng,có khúc nhạc du dương "xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa rừng" đang múa, đang múa lăm- vông:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.

Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:

"Người đi Châu mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi). Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ như vậy!

Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.

Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng Chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:

… "Ba năm rồi gửi lại quê hương,

Mái lều gianh,

Tiếng mõ đêm trường,

Luống cày đất đỏ,

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya"…

Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.

Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ quốc hay là chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với "áo bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ - Tổ quốc thân yêu. Các anh đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội đã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả "đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!

Sau này trong bài thơ "Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:

… "Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

Gặp nghìn nấm mộ

Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!

Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng

Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ

Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.

Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Sê – kông

Nén hương thơm lẫn với hương rừng

Những cô gái Lào đến thăm phần mộ

Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…"

Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh!

Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

"Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".

Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.

Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo Cả" của Hữu Loan, là "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng chí" của Chính Hữu, "Tây Tiến" của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 3

Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.

Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thành Hóa sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.

Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.

Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn anh hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.

Bài thơ gồm bốn đoạn thơ:

Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.

Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.

Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.

Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.

Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan của Lý Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!).

Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ. Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền tây tổ quốc.

Video bài văn mẫu Phân tích Tây Tiến

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.

Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.

Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

..........

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.

Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa đựng một sự thật nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Họ có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.

Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 4

Trong quãng đời người lính của Quang Dũng và có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy - những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến chắc chắn là quãng thời gian đáng nhớ nhất, in dấu sâu đậm hơn. Và thật là may mắn cho Quang Dũng và cho chúng ta, bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc, bao nhiêu vẻ đẹp và cả sự bi tráng của một quãng đời không thổ quên ở nơi miền Tây Tổ quốc cùng những người đồng đội đã được nhà thơ lưu giữ mãi mãi với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc: Tây Tiến. Bài thơ gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng, để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay tới Tây Tiến, mặc dù ông cũng còn có những thi phẩm đặc sắc khác.

Bài thơ được hình thành và kết tinh từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính nhà thơ trong đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống động. Thường thì những hình ảnh trong kí ức được gợi ra khó mà có một trật tự rõ ràng, nó có thể xáo trộn trình tự thời gian, không gian nhưng vẫn có một trình tự khác, đó là mạch cảm xúc của chủ thể. Ở đây mạch hồi tưởng đã làm lần lượt hiện lên những hình ảnh về Tây Tiến theo một trình tự vận động của tâm lí. Khởi đầu là hình ảnh những cuộc hành quân dãi dầu gian khổ giữa một khung cảnh miền Tây Tổ quốc hoang sơ, hùng vĩ, bí ẩn. Tiếp đó nỗi nhớ gợi về những hình ảnh tươi đẹp, rực rỡ, mềm mại và thơ mộng. Nổi bật lên trong đó là hình ảnh những thiếu nữ miền Tây trong đêm liên hoan lửa trại và vẻ đẹp huyền ảo trong sương khói buổi chiều tiễn biệt nơi Châu Mộc. Đến đây nỗi nhớ phải được kết tinh lại trong sự khắc hoạ tập trung, cận cảnh bức chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Nỗi nhớ đã đi trọn mạch hồi tưởng của nhà thơ, đến kết thúc, tác giả muốn gửi trọn hồn mình lên với Tây Tiến và mảnh đất miền Tây. Nếu xem hành động sáng tạo thi ca là một sự giải toả những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ (cảm xúc ấy được ngưng kết từ sự sống đã chất chứa trải nghiệm của chính tác giả) thì Tây Tiến có thể coi là một ví dụ điển hình.

Bài thơ bắt đầu bằng nỗi nhớ, nỗi nhớ chất đầy trong lòng nhà thơ, cất lên thành lời:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Câu thơ vang lên như một lời bộc-bạch, lại như lời gọi trong đó chứa đựng cả sự nhớ nhung, tiếc nuối. Câu thơ bảy chữ mà có bốn chữ là tên riêng, và đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ vùng đất miền Tây (mà sông Mã là đại diện) và đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ mở đầu này đã định hướng cho toàn bộ cảm xúc của bài thơ. Toàn bài sẽ là sự thể hiện cụ thể của hai hình tượng kết đọng nỗi nhớ của tác giả: miền Tây và người lính Tây Tiến.

Nỗi nhớ về một miền rừng núi đưa nhà thơ vào trạng thái đặc biệt, được gọi tên là nỗi "nhớ chơi vơi". Trong nỗi nhớ ấy mọi kí ức hiện lên thành hình ảnh khi thì rõ nét, khi lại mờ ảo, nhưng đều sống động, lung linh.

Hình ảnh hiện lên trước hết là những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng của miền Tây:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Câu thơ đầu bảy chữ có đến năm chữ là thanh trắc (sắc, hỏi), gợi tả rất thành công con đường hành quân với những đèo dốc quanh co, khúc khuỷu, lên cao mãi. Câu thơ tiếp theo vẽ ra được độ cao thăm thẳm của đỉnh núi ngập vào trong những cồn mây. "Súng ngửi trời" vừa rất thực, lại vừa là cách nói rất tự nhiên, đậm chất lính. Câu thơ thứ ba như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Câu thứ tư chỉ toàn thanh bằng chủ yếu là thanh không, mở ra một không gian xa, rộng ở bên dưới tầm mắt. Trong màn mưa phủ khắp đất trời, thấp thoáng hiện lên một vài đốm nhà, như bồng bềnh trên một biển mưa giăng khắp núi rừng. Bốn câu thơ tả cuộc hành quân này thuộc số những câu đặc sắc nhất của bài thơ. Bút pháp tạo hình gần với lối vẽ tranh thuỷ mặc, vừa làm nổi lên một vài điểm nhấn trên bức tranh bằng các chi tiết đặc tả, lại vừa tạo được không gian với ba chiều: cao, rộng, xa, bằng những nét vẽ mờ ảo, những khoảng trắng.

Những cuộc hành quân gian khổ, khắc nghiệt, triển miên đã khiến các chiến sĩ phải vắt kiệt sức lực và không ít người đã ngã xuống trên con đường hành quân. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không hề bỏ qua sự khốc liệt ấy.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Lâu nay, hai câu thơ này vẫn được hiểu là nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành quân. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ là hình ảnh vẽ sự mệt mỏi, kiệt sức với những giây phút thiếp đi của người lính giữa chặng hành quân. Dù là cách hiểu nào thì cũng đểu nói lên sự gian khổ, khắc nghiệt của những cuộc hành quân. Cần chú ý giọng điệu và từ ngữ ở hai câu thơ này: vừa thấm thìa, có một chút xót xa, nhưng lại có cái cứng rắn, hơi chút ngang tàng (bỏ quên đời). Cái dữ dội, hoang sơ và âm u, bí ẩn của thiên nhiên miền Tây được diễn tả rất ấn tượng trong các câu thơ 11, 12:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Đó cũng là những ấn tượng in đậm trong kí ức người lính Tây Tiến về miền Tây qua những cuộc hành quân, đặc biệt là ở những chiều, những đêm - có lẽ chính bởi trong những thời khắc này, cái hoang dã, bí ẩn, thâm u của rừng núi mới hiện ra rõ nhất.

Hai câu cuối của đoạn 1 tạo một bước ngoặt về hình ảnh và cảm xúc, đồng thời lại chuẩn bị cho đoạn 2. Điểm đến của các cuộc hành quân, cũng là nơi đoàn quân có thể dừng lại nghỉ ngơi, thường là những làng bản. Một bữa cơm nóng bốc khói, hương vị ngọt thơm của xôi nếp, đó là niềm mong mỏi, niềm vui ấm áp của người lính sau một chặng dài hành quân. Bây giờ nó đã hiện ra trong kí ức, trong nỗi nhớ như có cả hương vị ngọt ngào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Cần chú ý nét đặc sắc của câu thơ cuối đoạn 1: các kết hợp từ mới mẻ, việc lặp lại phụ âm đầu ở hai từ "Mai Châu", "mùa em", câu thơ gồm hầu hết các tiếng có thanh bằng gợi cảm giác vương vấn, lan toả.

Đoạn 2 của bài thơ mở ra những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và con người nơi miền Tây: nét đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên và cái đẹp của tình quân dân thắm thiết, đậm đà.

Một đêm liên hoan thắm tình quân dân được tả bằng những hình ảnh lung linh, rực rỡ dưới ánh đuốc và say sưa, lôi cuốn trong tiếng nhạc, điệu khèn. Những chữ bừng lên, hội đuốc hoa, kìa em liên tiếp nhau đã diễn tả niềm hào hứng, say sưa, ngỡ ngàng, thích thú của người lính trong đêm liên hoan và trước sự xuất hiện của các cô gái trong những bộ trang phục dân tộc rực rỡ. Bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp quyến rũ đầy tình tứ : Các cô gái dân tộc hiện ra đẹp lộng lẫy trong xiêm y rực rỡ, dưới ánh lửa đuốc lung linh, nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp; tất cả những vẻ đẹp ấy càng sống động, lôi cuốn trong tiếng khèn, điệu nhạc đặc trưng của các dân tộc. Chất tình tứ còn được thể hiện ở những hình ảnh, từ ngữ gợi liên tưởng đến một lễ cưới, hội đuốc hoa, nàng e ấp. Câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" có thể gợi cho thấy cuộc liên hoan này diễn ra ở bên kia biên giới Việt - Lào. Nên nhớ rằng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không chỉ ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam mà còn ở cả nhiều vùng thuộc các Xiêng Khoảng của Lào (ở đoạn kết bài có câu: "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi").

Bốn câu thơ tiếp theo (từ câu 19 đến 22) tả một cuộc tiễn đưa người đi Châu Mộc trong một chiều sương. Những câu thơ này lại mở ra một vẻ đẹp thật thơ mộng của thiên nhiên, cảnh vật đều nhoè mờ nhưng dường như chính vì thế mà có hồn hơn, mềm mại hơn. Những bông lau chập chờn, lay động trên những bến bờ như cũng có hồn, hay chính tâm hồn nhà thơ đã nhập cảm vào cảnh vật mà thấy được hồn của cảnh trong mỗi bông lau khẽ lay động, phơ phất. Cũng như vậy, những bông hoa dập dềnh trên dòng nước lũ cũng mang hồn cảnh vật, quyến luyến, tình tứ (hoa đong đưa chứ không phải là đung đưa). Nổi lên trên nền cảnh của bức tranh thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh một dáng người vững chãi trên con thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi, khỏe khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại.

Bút pháp trong đoạn 2 cũng có những biến đổi so với đoạn 1. Nét bút linh động, biến ảo, sử dụng ánh sáng và âm thanh tạo nên vẻ lung linh và nồng nàn tình cảm của một đêm liên hoan quân dân. Ở những câu thơ về một chiều Châu Mộc, vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng trong chiều sương của ngàn lau, thác lũ lại được vẽ bằng những nét bút tinh tế, mềm mại như những nét vẽ trong một bức tranh lụa hay tranh thuỷ mặc xen với đôi nét chấm phá tạo ấn tượng.

Cao trào trong mạch cảm xúc của bài thơ và cũng là hình ảnh trung tâm trong nỗi nhớ về Tây Tiến của tác giả là ở đoạn 3, khắc hoạ hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, lẫm liệt và bi tráng. Bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét có vẻ phi thường, khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

Cảm hứng lãng mạn, anh hùng đã giúp cho nhà thơ phát hiện và khắc hoạ được vẻ đẹp kiêu hùng của người lính, vượt lên, xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn. Hai câu thơ có âm hưởng độc đáo. Chữ đoàn binh có âm vang và mạnh hơn chữ đoàn quân, còn không mọc tóc thì gợi ra nét ngang tàng, độc đáo, như là người lính không cần, không thèm mọc tóc (mà thực ra thì chủ yếu là vì sốt rét làm rụng hết tóc). Câu thơ tạo được một hình ảnh mang vẻ hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến. Câu tiếp theo: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" càng tỏ đậm thêm hình ảnh ấy. "Xanh màu lá" là nước da xanh xao do sốt rét, thiếu thốn, gian khổ nhưng qua cảm hứng anh hùng và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ dữ dội của núi rừng chứ không hề gợi lên vẻ tiều tụy, ốm yếu.

Hai câu thơ tiếp theo lại bổ sung một nét đẹp khác cho hình ảnh người lính Tây Tiến: nét hào hoa của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn giàu mơ mộng. Trong những ngày tháng chiến đấu ở nơi núi rừng miền Tây xa thẳm và cực kì gian lao, khắc nghiệt, Hà Nội với những dáng kiều thơm vẫn hiện về trong giấc mơ là nỗi nhớ da diết, là cõi đi về trong mộng. Người lính cách mạng trong thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã từng bộc lộ nỗi nhớ bồn chồn về đôi mắt người yêu giữa đêm dài hành quân.

Nhưng Tây Tiến thuộc số ít những bài thơ nói về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng. Cái chết, dù là sự hi sinh, cũng không thể nào không gợi lên cảm xúc bi thương. Hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương viễn xứ lại càng nhân lên cảm xúc bi thương ấy. Nhưng câu thơ tiếp đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận, mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đây không phải là một cách nói của thi ca mà thực sự đã là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ Việt Nam trong những năm kháng chiến.

Cũng hiếm có trong thơ những câu thơ tả trực tiếp giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội, như hai câu:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Người lính ngã xuống nơi chiến trường thiếu thốn, đồng đội chỉ có thể khâm liệm bằng chính áo quần đơn sơ của những chiến sĩ ấy ("Áo bào thay chiếu" cũng có người hiểu là dùng chiếu thay cho áo bào bọc thây, nhưng cách hiểu ấy có lẽ không đúng với hiện thực của đoàn quân Tây Tiến). Chữ áo bào gợi lên một nét cổ kính, trang trọng, nhưng không quá xa cách. Chữ về gợi tình cảm gần gũi, yêu thương: người lính hi sinh là trở về với đất mẹ, trong lòng Tổ quốc. Trong giây phút thiêng liêng về với đất mẹ của những linh hồn chiến sĩ, cũng là giây phút vĩnh quyết những người đồng đội, vang lên tiếng gầm của dòng sông Mã như một khúc độc hành bi tráng. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền được vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong lòng người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Nhiều nhà thơ cũng dùng hình ảnh thiên nhiên để nói về sự hi sinh của người chiến sĩ. Tố Hữu khẳng định sự bất tử của những người cách mạng đã hi sinh bằng những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, trường tồn: "Những hồn Trần Phú vô danh - Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn". Vũ Cao mượn hình ảnh bông hoa để bất tử hoá sự hi sinh của cô gái làng Xuân Dục:

“Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi đóa hoa thơm.”

Còn Nguyễn Đức Mậu thì ví cây trầm với cuộc đời người chiến sĩ:

“Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hi sinh thơm đất, thơm trời.”

Những hình ảnh biểu tượng như thế thiên về ngợi ca sự cao cả và bất tử của sự hi sinh, làm mờ đi nỗi đau mất mát. Với hình ảnh "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", Quang Dũng nói được nỗi đau thương ghê gớm nhưng không bi luỵ mà mãnh liệt, đầy sức mạnh.

Đến đây, mạch hồi tưởng những kỉ niệm về Tây Tiến đã đi trong quá trình vận động của nó, và nhà thơ lại trở về với hiện tại. Hiện tại, đó là sự xa cách vời vợi với những người đồng đội cũ, với mảnh đất miền Tây Tổ quốc:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Đó là sự xa cách dằng dặc trong không gian và thời gian. Nhưng vượt lên mọi sự xa cách, Tây Tiến đã trở thành một phần không thể chia lìa trong tâm hồn nhà thơ. Hay nói một cách mạnh mẽ và thấm thía hơn, thì tâm hồn nhà thơ đã mãi mãi lưu luyến với mảnh đất miền Tây, với Tây Tiến. Câu thơ chuyển sang dùng đại từ phiếm chỉ "ai", bởi điều đó không chỉ riêng cho nhà thơ mà cũng là chung của tất cả những ai đã từng gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây.

Tây Tiến là một thi phẩm xuất sắc, kết tinh tâm hồn tài hoa và tài năng sáng tạo của cây bút thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện nghệ thuật: hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.

Hình ảnh trong bài thơ khá đa dạng và dược sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Trong bài thơ có hai loại hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời còn có hình ảnh về cuộc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Xem xét kĩ hơn, có thể nhận thấy ở mỗi loại hình ảnh (thiên nhiên, con người) cũng lại có hai dạng chính, tạo nên hai sắc thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho nhau. Thiên nhiên thì có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ ("Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời"; "Chiều chiều oai linh thác gầm thét - Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người", "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"). Bên cạnh đó lại có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, đong đưa bóng hoa... ("Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi - Mường Lát hoa về trong đêm hơi", "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", "Châu Mộc chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ", "dòng nước lũ hoa đong đưa"). Hình ảnh con người cũng hiện ra với nhiều sắc thái, mà chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng là ở ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên và coi thường những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh. Còn hào hoa là ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng. Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp trong miêu tả, dựng hình ảnh. Có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây. Nếu hình dung theo cách của hội hoạ thì có thể thấy hai bút pháp chính: có những nét bút mạnh, bạo, khoẻ, lại có những nét vờn mềm mại tạo nên vẻ đẹp ẩn hiện mờ nhòe.

Đặc sắc trong ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hoà trộn của nhiều sắc thái phong cách với những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính (chủ yếu là ở đoạn 3 miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ; lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh động của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong phong cách người lính: nhớ chơi vơi, súng ngửi trời, anh hạn, bỏ quên đời, cọp trêu người, ...). Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ của bài thơ là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em, hoa đong đưa, dáng kiều thơm, về đất, ...). Sử dụng địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ của bài thơ. Các địa danh vừa tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người, lại vừa gợi được sự hấp dẫn của xứ lạ phương xa.

Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc. Ở đoạn 1, giọng chủ đạo là tha thiết, bồi hồi được cất lên thành những tiếng gọi, những từ cảm thán ("Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!", "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói"). Ở đoạn 2, khi tái hiện kỉ niệm về những đêm liên hoan thắm tình quân dân thì giọng thơ chuyển sang hồn nhiên tươi vui, rồi lại bâng khuâng, man mác khi gợi lại cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ nơi Châu Mộc. Giọng thơ trở nên trang trọng, kiêu hùng., rồi lắng xuống bi tráng ở đoạn 3, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Ở đoạn cuối, giọng thơ trở lại bâng khuâng, đau đáu một nỗi nhớ da diết trong sự xa cách, chia phôi với những người đồng đội và miền Tây.

Tây Tiến là một đài kỉ niệm bất hủ bằng thơ, khắc ghi những hình ảnh và rung động của một thời hào hùng, khốc liệt, của một thế hệ trẻ đã từng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 5

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.

Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

..........

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào dĩ vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dường như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.

Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: "những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nét cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khuỷu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là một dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước. Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.

Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục súng mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, súng vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bắt gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

(Lê Anh Xuân)

Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng thác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây Tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền Tây Bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đã viết về cuộc hành quân của những người lính Tây Tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà như vẫn còn tươi mới đây thôi.

Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo từ bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”

Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.

Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ "đoàn binh" cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.

Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.

Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “mắt trừng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây Tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc, ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính Tây Tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.

Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

Thì làm gì còn tổ quốc”

(Trường ca những người đi tới biển)

Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây Tiến gầm lên khúc độc hành”

Chiếc “áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính Tây Tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đây Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.

Những người lính Tây Tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.

Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây Tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 6

“Có một bài ca không bao giờ quên…”

Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đó là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.

Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"

Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến? Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:

"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:

"Ra về nhớ bạn chơi vơi"

Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lí. Cũng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi: "Nhớ về rừng núi…". Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

...........

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:

"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn !"

Tố Hữu mô tả thẳng thắn cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."

Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"

Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.

Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa"

Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:

"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:

"Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"

Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. Những khó khăn lại đến:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì náo nức, rộn rã:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

...........

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."

Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ. Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nổi da xanh xao “màu lá”. Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:

"Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi."

Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ sống để chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn "Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hoà mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ."

Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương ? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sự ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hòa vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."

Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 7

Tây Tiến là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.

Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".

Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nút nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong "sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: "Ngàn thước lên cao / Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao " ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".

Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa" … vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời!", nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ…" như vậy.

Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương "xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa rừng" đang múa xòe, đang múa lăm- vông:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.

Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:

"Người đi Châu mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi), … Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như vậy.

Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.

Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng Chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc đa… Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:

“Ba năm rồi gửi lại quê hương,

Mái lều gianh,

Tiếng mõ đêm trường,

Luống cày đất đỏ,

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya”

Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản… thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.

Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ quốc hay là chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:

"Rải rác bên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với "áo bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ - Tổ quốc thân yêu. Các anh đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội đã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả "đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!

Sau này trong bài thơ "Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:

"Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

Gặp nghìn nấm mộ

Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!

Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng

Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ

Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.

Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Sê – kông

Nén hương thơm lẫn với hương rừng

Những cô gái Lào đến thăm phần mộ

Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…"

Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.

Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

"Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".

Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.

Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là Đèo Cả của Hữu Loan, là Nhớ của Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 8

Viết về hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp không thể không nhắc đến bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ với âm điệu hào sảng, oai hùng, bi tráng giúp cho chúng ta như sống về những năm tháng, cùng đồng hành cùng với các anh lính “quyết tử vì tổ quốc sinh”. Từ đó, giúp mỗi con người chúng ta biết trân trọng những giá trị hiện tại, tri ân muôn đời với sự hy sinh cao cả của các anh.

Quang Dũng, một con người đa tài, không chỉ giỏi vẽ tranh, làm thơ mà ông hát cũng rất hay. Nhưng mọi người biết nhiều đến ông qua những bài thơ và trong số đó phải kể đến bài thơ Tây Tiến. Với phong cách thơ hào hùng, bi tráng mà vẫn lãng mạn, Tây Tiến đã đi vào người vào lòng người qua bao thế hệ.

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ như ùa về, không kìm nén được mà nhà thơ Quang Dũng đã viết lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quên sao được những ngày hành quân, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Đó không chỉ là nỗi nhớ của riêng mình nhà thơ mà còn là nỗi nhớ của tất cả anh em đồng chí. Một nỗi nhớ đặc biệt “chơi vơi”, người đọc như có thể cảm nhận được trạng thái cụ thể của nỗi nhớ. Cảnh vật như vẫn còn hiện ngay trước mắt, quên sao được “sông Mã”, “Mường Lát” “Sài Khao”... Đặc biệt khi mà tác giả dùng từ cảm thán “ơi” và lặp vần “ơi” khiến cho nỗi nhớ lại càng da diết, khôn nguôi. “Mường Lát hoa về trong đêm rơi”, một câu thơ đầy chất nghệ thuật. Sự đặc biệt ở đây là việc sử dụng từ “hoa” của nhà thơ Quang Dũng. Có phải đó là những bông hoa rừng được các anh nhìn thấy trong ánh sáng hiu hắt của màn đêm. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp, của ánh sáng hy vọng trong đêm tối, cho chính cuộc chiến đấu sẽ giành được thắng lợi. Hay từ “hoa” là nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho những người lính hay phải chăng là những bó đuốc chỉ đường trong đêm tối?

Cuộc hành quân không ngừng nghỉ, qua nắng rừng sương đêm, qua những ngọn núi đầy trắc trở. Bốn câu thơ đã vẽ lên một bức tranh của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mang vẻ đẹp hùng dũng, hoành tráng nhưng cũng đầy hiểm trở, gian nan.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Chặng đường hành quân thật lắm chông gai không chỉ “khúc khuỷu” mà còn “thăm thẳm”. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” với nhịp 4/4 như bẻ đôi câu thơ khiến cho người đọc tiếp tục cảm thấy những khó khăn đang chồng chất khó khăn mà các chiến sĩ phải trải qua. Thế mà các anh vẫn hóm hỉnh, yêu đời lắm. Trong phút chốc dừng chân trên ngọn núi cao hàng ngàn thước tưởng chừng như chạm đến mây, đầu mũi súng hướng lên trên mà các anh ví von như “súng ngửi trời”. Các anh cũng nhẹ nhàng phóng tầm mắt mình ngắm đất trời, ngắm những ngôi nhà của làng Pha Luông xa xa trong màn mưa rừng, sương núi bao quanh.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

Thế rồi các anh lại tiếp tục cuộc hành trình của mình vượt qua những dãi dầu của nắng, mưa. Ý chí của các anh vẫn không ngừng tiến bước nhưng những khắc nghiệt đã níu chân người chiến sĩ.

Nhà thơ Quang Dũng đã dùng biện pháp tu từ nói giảm nói tránh về sự hi sinh của các anh “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Cái chết ấy nó nhẹ nhàng tựa như các anh chỉ đang đi vào giấc ngủ mà thôi, chợp mắt một lúc “gục lên súng mũ” để chuẩn bị cho cuộc hành trình tiếp theo. Sự hy sinh cao ấy ta còn bắt gặp trong tác phẩm “Dáng đứng Việt Nam”

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Các anh đẹp lắm, các anh chấp nhận cái chết, hiểu đó là điều tất yếu để có được hòa bình. Nỗi đau để lại cũng như đó cũng chính là sức mạnh tiếp bước cho các đồng đội tiếp tục hoàn thành sứ mệnh quốc gia dân tộc.

Dường như núi rừng Tây Bắc vẫn không dịu đi trước sự ra đi của một số chiến sĩ đồng đội.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Không phải là con thác êm đềm nước chảy, róc rách tiếng nước kêu, nhà thơ Quang Dũng đã nhân hóa con thác ấy “gầm thét” dữ dội, thiên nhiên bí hiểm thách thức cả con người “cọp trêu người”. Sự nguy hiểm, dữ tợn ấy không chỉ diễn ra một lần mà thường xuyên, liên tục lặp lại ngày này qua ngày khác “chiều chiều”, “đêm đêm”. Các từ láy chỉ sự lặp lại vô hạn của thời gian ấy khiến cho chúng ta cảm thấy được những nguy hiểm, sự rình rập của cái chết sẵn sàng bủa vây các anh lính bất cứ lúc nào của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

Bài thơ là nỗi nhớ Tây Tiến, đồng đội của nhà thơ, có lẽ vì thế mà các câu thơ bị cảm xúc đó chi phối.

“Nhớ ôi! Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Nhớ sao Tây Tiến thân thương qua việc sử dụng từ cảm thán “nhớ ôi” nhẹ nhàng nhưng mãnh liệt. Quên sao được những “đặc sản” của binh đoàn “cơm lên khói”. Dù có thiếu thốn, nhưng tình đồng chí, đồng đội quay quần bên nhau mới là tất là, là những bữa cơm tinh thần tiếp bước cho các anh sức mạnh. Nhà thơ vẫn không quên những đợt hành quân qua Mai Châu, được gặp những cô gái Thái, được thưởng thức những hạt gạo nếp của vụ mùa thu hoạch đầu tiên. Câu từ của nhà thơ miêu tả thật thi vị “mùa em”, “thơm”, đó không chỉ nét đẹp của cô gái Thái, vị ngon thanh nhã của xôi mà các anh như cảm nhận được tấm chân tình của những con người Tây Bắc dành cho chính mình.

Theo cảm xúc của nỗi nhớ nhà thơ lại nhớ về:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”

Để tiếp sức cho người lính, binh đoàn luôn có những trạm dừng chân để cho các anh giao lưu với người dân. Một không khí lãng mạn được thổi bùng lên trong đêm văn nghệ hiếm có ấy. Các anh như tạm quên đi súng đạn, hòa mình vào không khí vui tươi của tiếng khèn, những điệu múa… Ánh sáng rực rỡ, cháy đượm nồng nàn của những ngọn đuốc mà nhà thơ thấy như “hội đuốc hoa”. Những cô gái xinh xắn khoác lên mình những bộ váy áo xinh nhất mà các anh ngỡ ngàng tự thốt lên “tự bao giờ”. Các cô gái chính là trung tâm của đêm hội mang vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên dáng đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. Thật đẹp làm sao giữa tình quân dân, của tình yêu nhiệt huyết đầy mộng mơ tuổi trẻ. Đêm hội lửa chắc chắn rất vui, rất thơ mộng dù ở biên giới Việt Lào. Có lẽ theo tình yêu gửi trọn đến phương xa vì thế mà nó đã có thể “về Viên Chăn xây hồn thơ”.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

Trong cảm xúc nhớ thương về khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc mà nhà thơ đặc biệt nhớ về Mộc Châu. Câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng thật độc đáo “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?” dường như nhà thơ không phải để hỏi bất cứ ai mà nhằm khẳng định mình không thể quên được nó. Nó ở đây là những bông lau cũng có “hồn” có tâm tư tình cảm như con người. Người ra đi, mang theo nỗi buồn mang mác khiến cho cỏ cây cũng thấm đượm nỗi buồn đó. Dáng người khỏe khoắn của con người Tây Bắc trên chiếc thuyền độc mộc tạo cùng những bông hoa rừng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả đã tạo nên một bức tranh đẹp mang chút lãng đãng, hờ hững của buổi chiều sương giăng lối của miền sơn cước.

Thật ấn tượng khi những hiện thực khó khăn mà các chiến sĩ phải trải qua qua ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Những trận sốt rét rừng thật ghê rợn, nó khiến cho tóc các anh rụng hết đi. Thế mà nhà thơ lại có cách nói rất tinh nghịch “không mọc tóc”. Sốt rét rừng còn thậm chí khiến da các xanh xao. Màu xanh ấy giống như màu xanh của lá cây rừng, những chiếc áo ngụy trang của các anh càng làm tăng thêm “oai hùm”. Phong thái kiên quyết, không một chút u mỳ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Phải chăng cái “mắt trừng” ấy là lời đe dọa đến quân đội Pháp đang đóng chiếm ở Thượng Lào. Và một giấc mộng tươi đẹp về sự hòa bình sẽ sớm được lập lại giữa hai nước Việt – Lào, quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp.

Các chiến sĩ vốn xuất thân là chàng trai Hà Thành, tuổi mới đôi mươi vẫn còn tình yêu mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhưng nghe theo tiếng gọi của tuổi trẻ, các anh ra đi để lại gia đình, bạn bè và tình yêu của mình ở lại. Để rồi trong giấc mơ của mình các anh lại trở về với tình yêu của mình.

Trên con đường hành quân gian khổ, bom đạn của kẻ thù, của những cơn sốt rét rừng, sự nguy hiểm của thú dữ và muôn vàn khó khăn khác các anh đã nằm xuống:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu, anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Nơi các anh nằm xuống là “biên cương” xa xôi, “rải rác” trên chặng đường hành quân. Sự thiếu thốn của tư trang, thiết bị “đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ (bài thơ Đồng Chí), để khi về với đất mẹ, các anh chỉ có tấm chiếu mỏng manh. Nhưng dưới con mắt của nhà thơ, chiếc chiếu mỏng manh ấy chính là “áo bào”. Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính. Các anh chả hề khó khăn, sợ cái chết ở độ tuổi nhiệt huyết, tươi mới nhất “đời xanh”. Tính chất bi tráng thể hiện rõ trong đoạn thơ này, sự hy sinh của các anh khiến cho “sông Mã gầm lên khúc độc hành”, thiên nhiên phải gào thét lên. Tất cả đã tôn vinh cho sự ra đi đầy hiên ngang, bất khuất của những chiến sĩ can trường, chẳng tiếc chi tuổi trẻ, thanh xuân.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đọc bốn câu thơ cuối, chúng ta như cảm nhận được một không gian mở, nỗi nhớ ấy sẽ mãi không ngừng, chứ không vụt tắt đi. Những con người từ mọi miền đất nước nghe theo tiếng gọi để trở thành một binh đoàn Tây Tiến đầy sức mạnh. Sự chia xa ấy có thể là khoảng cách, không gian nhưng trong tâm trí các anh luôn nhớ về, mãi luôn trong tâm trí của nhau. Con người, thiên nhiên Tây Bắc cũng như nước bạn Lào dường như đã “bắt cóc” tâm hồn chiến sĩ: “Hồn về Sầm Nứa” chẳng về xuôi”. Và đó cũng chính là một lời thề chắc nịch, thủy chung của các chiến sĩ cho miền đất ấy.

Bài thơ là một bản anh hùng ca của những chiến sĩ. Sự tài tình trong bút pháp lãng mạn hòa trong bút pháp tả thực đã lột tả được những khó khăn mà người lính phải trải qua nhưng các anh vẫn luôn mang trong mình nét tươi vui, trẻ khỏe của độ tuổi hai mươi. Đất trời Tây Bắc dẫu có khắc nghiệt mà vẫn mang vẻ đẹp thơ mộng , thân thương.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 9

Kháng chiến chống Pháp đã qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của nhà thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

…………..

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Thật vây, nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, ko ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.

Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.

Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi

Nhớ chiếu bạn trải

Nhớ chăng bạn nằm”

2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Ở đây, Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…- địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”

“Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao

Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội

Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”

Tám câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.

Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.

Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)

Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.

Ở đoạn thơ thứ hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.

Quang Dũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ” Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”

Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:”Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân”

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.

Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới & Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội.

Hình ảnh người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”. Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn.

Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.

Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Hơn năm mươi năm kháng chiến chống Pháp trôi qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên của lịch sử dân tộc. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 10

Xantukop Sedrin đã từng viết: “Nghệ thuật nằm ngoài định luật băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.”. Thật đúng là như vậy! Và bài thơ “Tây Tiến” cũng nằm trong số đó. Quang Dũng là một nghệ sĩ tài ba: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ông đã trưởng thành trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, lịch lãm và tài hoa. Tiêu biểu cho hồn thơ lãng mạn ấy là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ là nỗi nhớ về đơn vị cũ của nhà thơ.

Tây Tiến là đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Lực lượng tham gia là học sinh, sinh viên, trí thức của đất Hà Thành. Nhiệm vụ của đoàn binh Tây Tiến phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào đánh tiêu hao lực lượng của địch, hoạt động trong một địa bàn rất rộng từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nứa (Lào) rồi vòng về phía tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ, thiếu thốn thuốc men, đạn dược, quân tư trang lại thêm sốt rét rừng hoành hành dữ dội nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời. Hoạt động được một thời gian, đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng, sau đó ông chuyển sang đơn vị khác tại làng Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ đồng chí, đồng đội đến cồn cào da diết ông đã viết “Tây Tiến” vào năm 1948. Bài thơ lúc đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”.

Với cảm hứng lãng mạn nhuốm màu sắc bi hùng, bi tráng, Quang Dũng đã khắc họa thành công bức tượng đài nghệ thuật và hình tượng người lính Tây Tiến trên nền thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội đồng thời là nỗi lòng của nhà thơ khi hướng về đồng chí, đồng đội, về miền đất đã từng sống, chiến đấu và gắn bó. Chạy dọc bài thơ là nỗi nhớ, nỗi nhớ dõi theo từng con đường hành quân, nỗi nhớ vượt qua không gian xuyên suốt thời gian. Và rồi men theo dòng cảm xúc ấy, người đọc sẽ thấm thía hơn một thời Tây Tiến.

Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc với những chặng đường hành quân:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Bài thơ cất lên bằng tiếng gọi tha thiết đắm sâu vào tâm hồn người đọc. “Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một trời thương nhớ với bao bâng khuâng, hụt hẫng, nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang vọng ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư, tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn đến đó. Sông Mã, Tây Tiến đã “xa rồi”, xa cả về không gian, thời gian nhưng những gì thuộc về Tây Tiến vẫn còn sống, neo đậu, khắc tạc nơi sâu thẳm cõi lòng nhà thơ. Dòng sông Mã lồng vào tiếng gọi Tây Tiến thể hiện sự gắn bó như không thể tách rời bởi đó là dòng sông đã từng chia ngọt sẻ bùi, cùng Tây Tiến một thời tắm nắng, gội mưa và cũng là dòng sông đã từng đưa tiễn người lính về với đất mẹ. Dường như dòng cảm xúc không thể kìm nén đã bật lên thành nỗi nhớ. Từ “nhớ” được láy lại hai lần trong một câu thơ như nốt nhạc trầm chở nặng tâm tư. Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua từ láy “chơi vơi” giàu sức gợi tả. “Chơi vơi” diễn đạt đến “độ chín” của nỗi nhớ, nhớ đến đau đáu, dằng dặc, triền miên, nỗi nhớ như những đợt sóng liên tiếp gối đầu nhau vô hồi vô hạn. Nó cồn cào, da diết, choáng ngợp cả tâm hồn. Từ nỗi nhớ của Quang Dũng gợi ta nhớ về nhân vật trữ tình trong ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Nỗi nhớ trong ca dao đến đỏ lòng, sốt ruột, còn nỗi nhớ của Quang Dũng dành cho đồng đội cứ lặng lẽ, chảy trôi đến vô chừng. Từ nỗi nhớ ấy, bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ cứ dần dần hiện lên.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, những bản làng xa xôi hẻo lánh, heo hút, lạnh lẽo – nơi mà lính Tây Tiến đã từng hành quân hay có khoảnh khắc dừng chân ngơi nghỉ. Dù xa xôi nhưng vẫn cắt hình rõ rệt trong những ai đã một sống cùng Tây Tiến. Tây Bắc là thế – chỉ một cái tên thôi cũng đủ làm ta xúc động rồi, hơn nữa, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: “Mảnh đất lưu giữ được tâm hồn con người khi ở đó chôn cất một người thân hoặc gửi gắm một phần trái tim họ” hay Chế Lan Viên đã từng chiêm nghiệm:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”

Vì thế mà mỗi miền đất không chỉ gắn với Tây Tiến mà còn gắn bó máu thịt với cuộc đời Quang Dũng. Sài Khao – mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng lảng bảng, từng con sông, ngọn suối sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà thành, nhọc nhằn trên những chặng đường chông chênh. Thế mà trái tim nhạy cảm, tình yêu tha thiết với đất và người Tây Bắc, họ như nghe được hơi thở, nhịp đập trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống. Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim núi non hùng vĩ, hiểm trở, cheo leo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Giọng thơ bỗng trở nên gân guốc, rắn rỏi, dồn dập, góp phần nhấn mạnh vào địa thế hiểm trở, đồng thời giúp người đọc cảm nhận bước chân chắc nịch của đoàn binh Tây Tiến in hằn trên sỏi đá. Một loạt những từ láy giàu chất tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” mở ra trước mắt một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, núi non trùng trùng điệp điệp. Điệp từ “dốc” láy lại hai lần trong một câu thơ góp phần thể hiện đắc địa một địa thế cheo leo, chênh vênh, lắm thác, nhiều ghềnh. Thì ra Tây Bắc là nơi ngự trị của núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, dốc cứ dốc, đèo cứ đèo, núi cao chót vót, vực sâu thăm thẳm khôn xiết.

Khi miêu tả thiên nhiên, Quang Dũng sử dụng nhiều thanh trắc phối hợp với giọng thơ rắn rỏi hòa cùng những từ giàu chất tạo hình để đẩy Tây Bắc lên tới đỉnh cao của chênh vênh, cheo leo trở thành mối thử thách lớn đối với con người. Vậy nên đoàn binh Tây Tiến hành quân là chặng đường chinh phục thiên nhiên, chinh phục khó khăn và trên hết là chinh phục chính mình. Thật vậy, đối với con người không có đỉnh cao nào là không chinh phục được, để rồi lính Tây Tiến khi khúc xạ dưới lăng kính tâm hồn đầy lãng mạn của Quang Dũng, họ trở nên kì vĩ hơn: “Súng ngửi trời” – đây là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh, tân kỳ và mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn như minh chứng cho ý chí vượt trội, cho sức mạnh phi thường, cho khát khao chinh phục. Thật đúng là:

“Đèo cao thì mặc đèo cao

Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”

Đặc biệt câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như bẻ đôi bởi cách ngắt nhịp 4/3 tạo thành tiểu đối giữa “cao” và “sâu”, giữa “lên” và “xuống”, dường như câu thơ có sự chuyển động căng đầy ra hai phía: Núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con người. Câu thơ chắt lọc từ “Chinh phụ ngâm khúc” – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm:

“Hình khe thế núi gần xa

Đứt đôi lại nối, thấp đà lại cao”

Tây Bắc – địa danh nào, cảnh vật nấy, nhà thơ viết về Tây Bắc bằng nỗi nhớ mà gợi được cả cái thần, cái hồn của cảnh – điều đó xuất phát từ một trái tim nặng nghĩa nặng tình với đất và người nơi đây. Để lấy lại cân bằng cảm xúc cho người đọc, Quang Dũng đã hạ bút với câu thơ toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ, ngước mắt nhìn lên, núi cao lưng trời, đưa ánh mắt nhìn xuống, vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn mưa rừng sương núi có cảm giác như những ngôi nhà Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa trốn xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa hư, nửa thực, chập chờn như trong cõi mộng. Chất lãng mạn phủ kín cảnh vật. Đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ. Tây Bắc không chỉ hùng vĩ mà còn rất huyền bí.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều”, “Đêm đêm” là những từ láy chỉ thời gian có ý nghĩa chuyển giao liên tục cũng là liên tiếp những khó khăn mà lính Tây Tiến phải đối mặt. Ban ngày lội suối, trèo đèo, băng rừng vượt núi; chiều về rùng mình ghê sợ trước sự trỗi dậy của thác nước, tiếng gầm thét của thác đổ như oai linh, trỗi dậy, ngự trị, trùm phủ cả núi rừng; đêm đến phải đối mặt với chim kêu, vượn hú, thú dữ hoành hành, dường như trên đất Mường Hịch vẫn còn lởn vởn đâu đây dấu chân cọp dữ. Xoa dịu đi cảm giác sợ hãi về một Tây Bắc dữ dằn là hai câu thơ nhiều thanh bằng lại ấm tình quân dân:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trong hàng trăm hàng nghìn nỗi nhớ Quang Dũng đặc biệt dành một phần trái tim mình cho đất Mai Châu khi bước vào mùa mới. Quên sao được cảm giác ấm tình quân dân bên các bản làng khi dừng chân ngơi nghỉ. Chẳng thế mà giọng thơ êm đềm tha thiết như khúc nhạc tâm tình gợi nhớ gợi thương, như mãi vấn vương một nỗi niềm. Thử hỏi rằng mùi hương nếp xôi có gì mà sao làm bồn chồn, thao thức tâm hồn Quang Dũng đến vậy? Đơn giản lắm! Đó là hương vị tích tụ từ sự mặn mòi của đất, từ những giọt mồ hôi mặn chát của con người, từ thần khí thiêng liêng của xứ sở anh hùng. Hơn nữa, hương nếp xôi còn hòa trộn cả tình người ấm áp, keo sơn. Vì thế mà theo suốt cuộc đời những ai đã một thời sống cùng Tây Tiến, hương nếp xôi đã trở thành nhịp cầu nối bắc quá khứ, hiện tại và tương lai để thêm một lần nhà thơ được trở về với Mai Châu, được sống với những kỉ niệm của một thời chinh chiến. Còn lại sau một chặng đường dài hành quân người đọc không nghe hơi thở mệt mỏi, chẳng nghe một lời than vãn mà chỉ thấy dìu dịu, ngọt lành trong hương nếp xôi, trong tình người thắm nghĩa. Hoàng Cầm khi xa rời Kinh Bắc mang theo “lúa nếp thơm nồng”, Nguyễn Đình Thi rời xa Hà Nội mang theo mùi hương cốm mới, còn Quang Dũng xa Tây Bắc nhớ lắm “hương nếp xôi” – Đây là điểm gặp gỡ với Chế Lan Viên:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Ta hiểu vì sao Tô Hoài hơn một lần tâm sự: “Đất Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều lắm”. Tiếp tục với dòng cảm xúc của Quang Dũng, người đọc nhận ra giữa không gian núi rừng heo hút, giữa cái thăm thẳm của chốn đại ngàn vẫn hiện lên vẻ đẹp chân dung người lính Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Biết bao khó khăn, gian khổ của lính Tây Tiến được Quang Dũng dồn nén vào từ “dãi dầu” thể hiện sự từng trải nám sạm nắng mưa, dạn dày sương gió. Thế nhưng vẫn phớt lờ, coi thường hiểm nguy, coi thường cái chết “bỏ quên đời”, thì ra họ là những chàng trai giàu đức hi sinh, coi cái chết nhẹ, chỉ như khoảnh khắc thiếp đi vì mệt mỏi mà thôi. Nhà thơ đã thổi bùng lên ánh sáng của lí tưởng anh hùng, của khát vọng diệt thù, của đấng nam nhi với chí làm trai.

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái dương nhẹ tựa hồng mao”

Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa, lãng mạn, cái nhìn tinh tế, sâu sắc của một họa sĩ kết hợp với cảm xúc yêu mến nhớ nhung chân thành, Quang Dũng đã làm sống dậy một thời chinh chiến gian khổ giữa núi rừng hùng vĩ hoang sơ.

Những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo, giọng thơ rắn rỏi với nhiều thanh trắc đã lùi dần, nhường chỗ cho những nét vẽ tinh tế, mềm mại, uyển chuyển để mở ra một thế giới mới của Tây Bắc. Tây Bắc không chỉ cheo leo, hiểm trở, lắm thác, nhiều ghềnh mà Tây Bắc còn rất diễm lệ, có sức hấp dẫn lôi cuốn bởi cảnh thơ mộng, người duyên dáng vì thế mà làm nên giọng thơ ngọt ngào như chất men say, lại du dương chất nhạc hòa cùng cảm xúc lãng mạn:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cả không gian đang im lìm, lòng người lắng lại trong sự chờ đợi để được hòa mình vào đêm văn nghệ ấm tình quân dân. Với những chi tiết tả thực kết hợp với cái nhìn lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện đêm sinh hoạt văn hóa nơi rẻo cao vùng núi đẹp như một câu chuyện cổ tích làm say sưa, ngả nghiêng lòng người. Động từ “bừng” diễn tả sự chuyển biến mau lẹ, đột ngột, một sự đổi thay kì diệu bừng lên ánh sáng, xua tan đi màn đêm tăm tối của một góc rừng, sưởi ấm không gian, xua tan sương sa lạnh giá của một miền sơn cước, đồng thời đổi thay tâm trạng của đoàn binh Tây Tiến. Bởi sau một chặng đường dài, không có một lời than vãn, một hơi thở mệt mỏi mà là niềm vui, hồ hởi, phấn khởi. Quang Dũng thật khéo léo khi sử dụng từ “bừng” đem đến một luồng sinh khí mới, hơi thở, nhịp đập của sự sống, của niềm vui, của tình người chứa chan, của chất men say say người say cảnh. Trước đây, Tố Hữu cũng sử dụng từ “bừng” để đánh dấu bước ngoặt cuộc đời, khi có ánh sáng lí tưởng cách mạng chiếu rọi vào tâm hồn… Còn Quang Dũng sử dụng từ “bừng” diễn tả đêm văn nghệ thật giàu cảm xúc giàu chất thơ. Đêm văn nghệ quần chúng ấy đã trở thành đêm “hội” lung linh ánh sáng, lóng lánh sắc màu, rộn rã âm thanh và náo nức lòng người. Đặc biệt, lửa đuốc bập bùng mang hơi thở văn hóa của đồng bào biên cương khi qua lăng kính tâm hồn nhà thơ đã trở thành “hội đuốc hoa”. “Đuốc hoa” vốn là từ cổ chỉ ngọn nến thắp sáng trong đêm tân hôn, lúc này trở thành ánh sáng của đêm hội, đêm văn nghệ, khung cảnh hiện lên vừa cổ kính, vừa hiện đại để lính Tây Tiến như được bước vào thế giới của huyền thoại để được hòa mình trong cái đẹp đầy bí ẩn của đất và người xứ lạ phương xa. “Kìa” là biểu hiện của sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi có sự xuất hiện của những cô gái người dân tộc Thái với xiêm y lộng lẫy. Họ đến đêm hội bằng niềm đam mê, bằng vẻ đẹp ban sơ của những con người sinh ra, lớn lên trên xứ sở đại ngàn. Giọng thơ êm đềm tha thiết đọng lại ở từ “em” nghe thật ân cần, chất chứa bao tình. Vậy là những thiếu nữ dân tộc Thái trở thành nơi ngưng đọng ánh mắt, tâm hồn của những chàng trai Hà thành lãng mạn hào hoa, nhạy cảm trước cái đẹp, khao khát kiếm tìm hạt ngọc trong tâm hồn Tây Bắc. Có lẽ núi rừng cũng thức trọn đêm để cùng người lính say sưa ngả nghiêng trong tiếng khén, nhịp phách. Giữa ánh sáng lung linh của “đuốc hoa”, những thiếu nữ đẹp như Hằng Nga lạc giữa vườn cổ tích, như sơn nữ giữa rừng già trầm mặc, như thiên thần trong sử thi. Tây Bắc là thế, biết níu giữ chân ai đã một lần đến, biết đánh thức khát khao… Từ tình yêu dành cho đất và người Tây Bắc nên những câu thơ của Quang Dũng có sự hóa thân của một tài năng, có sự hiện hình của chất họa; có giai điệu của chất nhạc, có vẻ đẹp e ấp, tình tứ duyên dáng của con người, có cái kín đáo, e lệ của thiếu nữ miền sơn cước. Giữa “man điệu” – giai điệu xứ lạ phương xa con người càng trở nên đẹp đẽ hơn, thiếu nữ càng trở nên kín đáo, dịu dàng hơn trong từng nhịp bước của vũ điệu Lăm-vông đậm chất văn hóa của núi rừng. Khúc nhạc của rẻo cao vùng núi như lan ngấm thấm tràn, lan tỏa đến vùng miền đất bạn Lào xa xôi để xây đắp nên hồn thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa, phóng khoáng. Ai đã một lần sống cùng Tây Tiến, được hòa mình vào đêm văn nghệ, tâm hồn đều hóa thành thi sĩ.

Chỉ với bốn câu thơ Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh vừa phong phú về đường nét vừa đa dạng về âm thanh, vừa làm sống dậy bản sắc, phong tục, tập quán của đồng bào rừng núi, vừa gợi lên vẻ đẹp tâm hồn lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến đồng thời thêm một lần nhận ra tình quân dân thắm thiết mặn nồng. Cảm nhận về đoạn thơ này, Xuân Diệu viết: “Đọc đoạn thơ ta như được ngậm nhạc trong miệng, chẳng hiểu sao thứ nhạc ngân nga trầm bổng của núi rừng Tây Bắc cứ len lỏi thấm sâu vào lòng người.”.

Nếu đêm văn nghệ đem đến cho người đọc một không khí say mê thì cảnh sông nước Châu Mộc lại gieo một cảm giác buồn man mác bâng khuâng khi đối mặt với không gian hoang dại mênh mang:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Đất Châu Mộc vào một buổi chiều sương năm ấy đã trở thành điểm hẹn của nỗi nhớ – nhớ buổi chiều hành quân đến xứ sở lắm sương nhiều khói. Sương giăng mắc khắp chốn muôn nơi, sương che lấp đường đi, che khuất bóng người, sương như tấm áo choàng lảng bảng trùm phủ từng con sông, ngọn suối, sườn đèo. Có lẽ sương khói của thời gian không đủ để nhòa đi sương khói của Châu Mộc bởi: “Kỉ niệm chẳng là gì khi thời gian vội xóa – Nhưng sẽ là tất cả khi luôn nhớ về nhau”. Trong kí ức của Quang Dũng miền đất Châu Mộc luôn luôn ấm nóng cho dù cái địa danh xa xôi cách trở, hoang sơ, lạnh lẽo mênh mang như bờ tiền sử. Một loạt những từ hỏi: “có thấy”, “có nhớ” cứ thế trỗi dậy như những lời tự vấn, hỏi chính mình, hỏi để đánh thức một vùng kỉ niệm, hỏi để dặn lòng mình, hỏi để thêm một lần được sống cùng đồng chí, đồng đội, sống với miền đất đã từng đặt chân để nhận ra rằng: “Nơi nào quả lòng chẳng lại yêu thương”. Ấn tượng về Châu Mộc không chỉ là sương khói mà còn là ngàn lau trắng xóa, nở rộ làm nên đặc trưng của đất biên giới. Lúc này sương giăng, hồn lau cứ xôn xao trong nỗi niềm nhà thơ tạo cảm giác bâng khuâng xa vắng phảng phất một nỗi buồn. Lau trắng chiếm lĩnh cả tâm hồn để rồi xao xác, xào xạc mãi trong tâm hồn những ai đã từng đến rồi đi. Ví như Hoàng Hữu:

“Người xa phơ phất hồn lau gió

Thổi trắng chân trời như khói pha”

Quang Dũng không chỉ miêu tả cảnh mà còn gợi được linh hồn của cảnh. Điều đó chỉ có thể có thể có ở một người nhạy cảm, lắng nghe từng hơi thở của đất trời, tạo vật. Chẳng thế mà giữa khung cảnh sông nước mênh mang vẫn thấp thoáng đâu đây bóng dáng con người thật mềm mại, duyên dáng trên chiếc thuyền “độc mộc”. Đó là bóng dáng của những cô gái dân tộc Thái – sự xuất hiện của họ làm cho nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, đầm ấm hơn. Phải chăng là sơn nữ đã một thời chở lính Tây Tiến qua sông làm nhiệm vụ, hay là bóng dáng của người mà lính Tây Tiến một thời trộm nhớ, thầm thương. Con người như đang làm duyên với cảnh, tôn lên cái thần, cái hồn của cảnh. Đây là nét chấm phá nghệ thuật độc đáo làm nên sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên – một mối giao cảm. Có người từng nói: “Cảnh dù đẹp đến đâu mà không xuất hiện tín hiệu của cuộc sống con người thì cũng là cảnh chết”. Để rồi đến lượt mình, cảnh làm duyên với người – nét tinh tế ấy được Quang Dũng họa trong vẻ “đong đưa” của những bông hoa dại ven suối. “Đong đưa” chứ không phải “đung đưa”, “đong đưa” làm cho hoa tự nhiên có nét cử chỉ, điệu bộ, duyên dáng như thiếu nữ. Dòng nước lũ chảy trôi để lại đôi bờ cỏ cây lau sậy, đặc biệt là những bông hoa dại ven suối như khẽ vươn mình để làm duyên với nước, làm duyên với người. Từ ý thơ của Quang Dũng gợi ta nhớ về bông hoa tím giữa dòng sông xanh trong thơ Thanh Hải. Nếu như Hương Giang là tấm gương để hoa tím soi mình, khoe mình thì trong thơ Quang Dũng những bông hoa dại – đẹp nguyên sơ của núi rừng – không chỉ làm duyên với dòng sông mênh mang mà còn làm duyên với con người. Bức tranh sông nước thật đăng đối, hài hòa chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc dưới bàn tay họa sĩ tài ba.

Bốn câu thơ là một bức họa thật đơn giản nhưng toàn bích, vừa tinh tế mềm mại, vừa duyên dáng, thơ mộng và đắm say. Đằng sau bức tranh ấy là khoảng trời riêng dành cho nỗi nhớ, cảnh thế, tình thế làm sao mà không nhớ, không yêu cho được?

Người lính cụ Hồ đã trở thành bến đậu nghệ thuật, điểm dừng chân khơi nguồn cho sức sáng tạo không bao giờ vơi cạn trong trái tim người nghệ sĩ. Vẫn còn đó hình ảnh anh bộ đội áo vải chân không đi lùng giặc đánh trong thơ Tố Hữu hay người lính miệng cười buốt giá chân không giày trong thơ Chính Hữu. Và rồi Quang Dũng đã làm nên “Tây Tiến” – một bài ca không bao giờ quên, bài ca ấy đã thắp sáng lên ngọn lửa của lí tưởng, bài ca soi sáng rạng ngời chân dung người lính cụ Hồ và cũng là bài ca neo đậu trong sâu thẳm trái tim người dân đất Việt mỗi khi tìm về lịch sử. Quang Dũng đã tinh lọc những nét khái quát nhất, tiêu biểu nhất để tạc dựng một bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về hình tượng người lính Tây Tiến. Bức tượng đài ấy viết lên bằng cảm hứng lãng mạn nhuốm màu sắc bi hùng, bi tráng chứ không hề bi thương, bi lụy. Chân dung người lính Tây Tiến được nhà thơ khắc họa bằng những nét vẽ gân guốc, kì lạ, khác thường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Cái lạ hóa, gân guốc bắt nguồn từ hiện thực, thực đến từng chi tiết, biểu hiện qua cụm từ “không mọc tóc”. Thoáng đầu, người đọc cứ ngỡ họ là những “quái đản”, những khổng lồ không tim. Nhưng không! Đây là hậu quả của căn bệnh sốt rét rừng tác oai, tác quái đến mức rụng hết tóc đầu, biến họ trở thành những anh “vệ trọc”. Từ hiện thực nghiệt ngã ấy, ta nhận ra cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh và tội ác của thực dân Pháp, đồng thời nhận ra ý chí vượt trội của những chàng trai đất Hà thành ngày đêm đối mặt với bom rền đạn réo, vật lộn với sốt rét để giành giật lấy sự sống. Mặc dù vậy nhưng từ giọng thơ ta vẫn nhận ra khẩu khí của người lính cụ Hồ phớt lờ, coi thường cái chết. Căn bệnh sốt rét đã hơn một lần xuất hiện trong thơ, Chính Hữu viết:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Còn hình ảnh anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu thì:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ”

Dường như những dằn vặt, khổ đau vì sốt rét được Chính Hữu, Tố Hữu nén vào ngôn từ để vơi đi vẻ tiều tụy. Còn Quang Dũng không hề né tránh, che đậy mà hiện thực trần trụi của cuộc kháng chiến chống Pháp được khúc xạ qua bút pháp lãng mạn trở thành cách nói riêng mang khẩu khí, mang chất lính. Nói như tiến sĩ Đoàn Hương thì: “Thơ có sức hấp dẫn bởi vị muối của đời – suy cho cùng cái vị mặn ấy chính là hiện thực.”. Vậy nên hiện thực mặn chát của cuộc kháng chiến chống Pháp được Quang Dũng tái hiện nổi hình, nổi sắc trong thơ. Từ vẻ bên ngoài của người lính Tây Tiến gợi ta nhớ về hình ảnh quân đội nhà Trần bừng sáng hào khí Đông A: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Thật vậy cho dù đầu rụng hết tóc, da dẻ xanh xao vàng vọt lên màu bệnh tật: “quân xanh màu lá” nhưng lính Tây Tiến vẫn giữ được vẻ uy nghi lẫm liệt như hùm hổ chốn rừng thiêng, như chúa tể sơn lâm “dữ oai hùm”. Bao nhiêu sức mạnh nội lực, vẻ cam trường của người lính như dồn nén vào câu chữ để tôn lên sức mạnh kì diệu của con người bắt nguồn từ lòng yêu nước đang rần rật chảy trong từng đường gân, thớ thịt của những chàng trai Hà thành. Quang Dũng đã phát huy triệt để hiệu quả của biện pháp đối lập giữa vẻ bề ngoài và nội tâm, nhìn vẻ ngoài người lính vừa tiều tụy, vừa cam trường, vừa mang khí phách của một hiệp sĩ, vừa như những người khổng lồ không có trái tim. Thế nhưng đó chỉ là lớp vỏ bao bọc hạt ngọc tâm hồn – tâm hồn hào hoa, lịch lãm, lãng mạn và giàu đức hi sinh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn, uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu hướng về quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi niềm. Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn giấc mơ về Hà Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến, nhớ Hà Nội bởi:

“Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”

Những ai đã từng sống và gắn bó với Hà Nội khi đi xa đều vương vương một nỗi buồn, đều mang theo một nỗi nhớ; nhớ phố cổ thâm nghiêm, nhớ lá vàng rơi trên vai người thiếu nữ, lá vàng đậu trên rèm cửa. Ai đó lại xao xác trong tâm hồn bởi tiếng rao đêm hay Nguyễn Đình Thi nhớ nhiều và thật nhiều “mùi hương cốm mới” mỗi độ thu về. Còn người lính Tây Tiến xa Hà Nội mang theo “dáng kiều thơm”. Một cách cảm nhận thật nho nhã, lịch lãm, nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, đằm thắm, ngọt ngào, da diết hơn. Dáng kiều thơm – bóng dáng của những thiếu nữ Hà thành dịu dàng trong tà áo dài duyên dáng bên Tây Hồ. Phải chăng đó là bóng hồng, bóng liễu đã một thời để nhớ, để thương. Vì thế mà nỗi nhớ còn đượm mùi sách vở, tôn lên vẻ lịch lãm của người Hà Nội:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Đây không phải là cái “mộng rơi mộng rớt” của những trí thức tiểu tư sản mà là vẻ đẹp tâm hồn rất hào hoa, lịch lãm, lãng mạn của những chàng trai “xếp bút nghiên lên đường bảo vệ Tổ quốc”. Do đó chính nỗi nhớ về thiếu nữ Hà thành đã tiếp thêm sức mạnh để người lính cất cánh bay lên, chiến đấu, chiến thắng trở về. Đây không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp tâm hồn lính Tây Tiến mà còn là phẩm chất của người lính cụ Hồ thời chống Pháp. Ví như người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Hay Chính Hữu tưởng tượng nơi quê nhà: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Quang Dũng viết về lính Tây Tiến không chỉ bằng chất liệu hiện thực mà bằng nguồn cảm hứng lãng mạn bay bổng, bằng sự lí tưởng hóa để rồi hơn một lần ta nhận ra lính trong thơ ông không chỉ lãng mạn mà còn giàu đức hi sinh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu vào cõi lòng người đọc, dấy lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Thật vậy! Trên những chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống, gửi thân xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa vơi, nước mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã tới cọ cứa vào trái tim những người còn sống. Một loạt những từ Hán Việt: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” được sử dụng để trang trọng hóa, cổ kính, vĩnh hằng và bất tử hóa đức hi sinh của lính Tây Tiến. Có biết đâu những nấm mồ xanh cỏ, nơi ải nước xa xôi, hoang vu, lạnh lẽo mãi trở thành mộ chí tôn nghiêm mà đời đời Tổ quốc ngợi ca, ngưỡng vọng. Người xưa có câu: “Cổ lai chinh chiến kí người hồi – Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” – Đó là hiện thực tất yếu từ ngàn đời nay, đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh nối tiếp trang sử truyền thống cha ông càng không thể làm ngơ trước họa xâm lăng. Lính Tây Tiến cũng vậy, họ nằm xuống nhưng không mất đi mà hóa thành hồn thiêng sông núi để sống muôn đời với dân tộc Việt anh hùng. Nói như Nguyễn Khoa Điềm thì “không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm ra đất nước”. Từ câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” gợi ta nhớ về người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”- Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm:

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”

Nếu như tử sĩ, chinh phu nằm lại chiến trường trong sự lãng quên vì chiến tranh phi nghĩa thì lính Tây Tiến ngã xuống – đức hi sinh thầm lặng ấy mãi mãi in dấu trong lịch sử, trong trái tim mỗi thế hệ. Nhà thơ tiếp tục khắc họa đứ hi sinh của đồng chí đồng đội – những con người sẵn sàng hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho non sông đất nước: “chẳng tiếc đời xanh”. Ý thơ vút lên từ giọng điệu trầm hùng bộc lộ ý chí tư thế, tâm thế của lính Tây Tiến vào chiến trường làm nhiệm vụ hiến dâng cuộc đời mà không mảy may nuối tiếc cho dù họ là học sinh, sinh viên, trí thức ở tuổi hai mươi lăm ước mơ, nhiều khát vọng:

“Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu

Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão”

Thế mà khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc trong giờ phút lâm nguy, họ sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; lấy máu mình tô thắm cho lá cờ Tổ quốc, xương trắng rơi, máu đào rỏ để gìn giữ hoa độc lập, trái tự do. Âm hưởng của câu thơ đưa ta trở về với hào khí thời kì chống Pháp để âm vang đâu đây lời bài hát: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi – Nào có chi đâu ngày trở về”. Với cái nhìn lãng mạn, nhuốm màu sắc bi hùng bi tráng, người lính trong thơ Quang Dũng còn mang dáng dấp của tráng sĩ thời chiến quốc cương quyết, dứt khoát ra đi vì nghĩa lớn.

Cuộc kháng chiến chống Pháp đầy cam go, khốc liệt với bao mất mát, đau thương, song chính lí tưởng anh hùng của những con người sẵn sàng xả thân như lính Tây Tiến đã làm nên dáng hình Tổ quốc để rồi ta thấm thía hơn lời dặn của Đặng Thùy Trâm: “ Có một ngày nào đó, bạn nắm tay người thân đi trên một con đường chớ quên rằng dưới chân mình là đá sỏi, là hòn đất thấm máu cha ông. Có một ngày nào đó, bạn cùng người thân ngắm nhìn một vì sao trên trời, sẽ có lúc vì sao ấy màu đỏ – màu máu của biết bao người đã xếp ước mơ vào balo rồi nằm yên trong lòng đất mẹ.”. Lính Tây Tiến là những người như thế.

Đoạn thơ khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:

“Áo bào thanh chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng đã có lần tâm sự: “Lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân, đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích của việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên nứa cho các anh bó gối thi hài đồng đội”. Vậy là “áo bào” được lý tưởng hóa – một hình ảnh tượng trưng để xua đi cái bi thương, bi lụy, lấy lại cái bi hùng, tráng lệ, đồng thời để trang trọng, vĩnh hằng, bất tử hóa. Áo bào vốn được dùng cho vua chúa xưa để khơi gợi con người mang trong mình lí tưởng đẹp. Trong những năm bom rơi đạn nổ, chất lãng mạn, bay bổng vượt lên trên hết thảy trở thành nơi trú ngụ của những tâm hồn đẹp. Vậy nên hình ảnh “áo bào” trong câu thơ như một liều thuốc xoa dịu nỗi đớn đau, an ủi vong hồn người đã khuất.

Cụm từ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh, gợi sự thanh thản, coi như các anh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó để về tựu nghĩa anh hùng như An Dương Vương sau khi đắp lũy xây thành, phân biệt rạch ròi việc nước tình nhà để rồi cùng Rùa Vàng về với biển khơi; như Thánh Gióng năm xưa nhổ tre đại phá giặc Ân rồi cưỡi ngựa bay về trời để bao ánh mắt ngước lên đầy ngưỡng vọng. Hôm nay, lính Tây Tiến về với đất mẹ, đất mẹ sinh ra anh, đất cũng mở rộng vòng tay đón các anh về trong tình yêu thương, đùm bọc, nâng đỡ và sẻ chia. Vâng! Cho dù khâm liệm bằng manh chiếu, phên nứa nhưng các anh sẽ được sưởi ấm bằng chính tình yêu của mảnh đất mà: “Mẹ Âu Cơ đã đi một vòng Trái Đất – Và chọn hình tia chớp để sinh con”. Quang Dũng đã khơi gợi những tình cảm sâu xa đến tận đáy lòng người đọc để thấm thía hơn những người con đã hi sinh hóa hình Tổ quốc.

Tiễn đưa các anh về với đất mẹ không phải là những giọt nước mắt bi ai, não nuột của đồng chí, đồng đội, dường như nước mắt đã lặn vào trong, đọng thành khối chôn chặt nơi sâu thẳm trái tim đồng đội – những người còn sống: “Tiễn anh không nước mắt – Mà lòng đau như cắt”. Đưa tiễn người lính là tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã, như khúc nhạc trầm hùng mà thiên nhiên tấu lên xua tan bi thương. Dường như tất cả nội lực của câu thơ được dồn vào từ “gầm” nghe như tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào của thiên nhiên sự hóa thân của lính Tây Tiến vào sông núi. Có lẽ đức hi sinh của các anh đã vang thấu đến tận trời cao, thấm sâu vào lòng đất mẹ, động địa cả núi rừng Tây Bắc. Vì thế mà sông Mã “độc hành” tiễn đưa. Một lần nữa Quang Dũng bất tử một thời Tây Tiến bởi chừng nào dòng sông Mã còn tồn tại trên dải đất hình chữ S này, thì chừng ấy những gì thuộc về Tây Tiến vẫn còn neo đậu, còn sống, khắc tạc trong lòng bao thế hệ. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi mai sau dòng sông Mã khi dữ dội, khi hiền hòa và tha thiết chảy, chảy đến đâu, mang theo một thời Tây Tiến đến đó. Tố Hữu viết:

“Có những phút làm nên lịch sử

Có cái chết hóa thành bất tử

Có những lời hơn mọi bài ca

Có con người như chân lý sinh ra”

Lính Tây Tiến là thế đó, họ đã làm nên lịch sử, họ đã trở thành bất tử và chính họ đã viết lên bài ca cuộc đời của những con người biết hi sinh vì Tổ quốc.

Đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Quang Dũng, tô đậm những nét phi thường, sử dụng triệt để thủ pháp tương phản giữa hình thức và nội tâm, giữa hiện thực khốc liệt với tư thế kiêu hùng kết hợp với cách sử dụng từ Hán Việt, nghệ thuật nói giảm nói tránh, cường điệu… Tất cả đủ sức tạc dựng bức tượng đài nghệ thuật về hình tượng người lính Tây Tiến tiêu biểu cho anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ chống Pháp. Cảm nhận về bài thơ “Tây Tiến”, Giang Nam viết:

“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và con người ấy, bài thơ ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông.”

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 11

Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.

Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.

Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kì vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng". Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa

............

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước nữa". Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa "tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác gầm thét". Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.

Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

........

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng "kìa em". Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.

Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá”, "chân không dày". Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi "chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường đi thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.

Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 12

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng nhân lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá khứ. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có thể tạo được ấn tượng thật đặc biệt, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nét cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hoa về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”

Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khuỷu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhà thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước… Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”

Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời”

Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(Lê Anh Xuân)

Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”

Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng thác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đã viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên-chăn xây hồn thơ”

Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”

Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trừng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc… ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)

Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”

“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 13

Tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn gắn bó luôn là một đề tài muôn thuở cho các nhà thơ tìm về miền đất nhiều kí ức. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những sự hi sinh, gian lao vất vả mà người chiến sĩ đã trải qua để mang lại cuộc sống yên bình cho bao người, họ còn bộc lộ những nét đáng yêu, tinh nghịch đậm chất lính. Quang Dũng cũng đã hòa mình vào với “chất lính cụ Hồ” để xây dựng nên bức tượng đài người lính vừa đẹp, vừa hùng tráng mà đầy khí phách:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Bài thơ “Tây Tiến” như một kí ức đẹp mỗi khi ta nhớ tới Quang Dũng. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa được lâu, tại Phù Lưu Chanh, với nỗi lòng nhớ Tây tiến da diết, ông viết bài “Nhớ Tây Tiến”, sau ông đổi tên thành “Tây Tiến”. Bài thơ được tin trong tập “Mây đầu ô”.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thốt lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Hòa mình vào nỗi nhớ dai dẳng không hồi kết, địa danh Tây Tiến gắn liền với con sông Mã hào hùng nó không chỉ là một người bạn thân thiết với mỗi người lính mà nó còn là một chứng nhân lịch sử. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại ở câu thơ thứ hai nhấn mạnh nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, khi kết hợp với từ láy “chơi vơi” càng tạo điểm nhấn kéo dài nỗi nhớ ấy, nó như thấm nhuần vào từng ngõ ngách tâm trí của nhà thơ.
Nỗi nhớ ấy tiếp tục bao trùm lên những câu thơ tiếp theo của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Trong những khổ thơ này, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến các địa danh đã đi cùng năm tháng với người lính: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua, dừng chân nghỉ ngơi. Nhà thơ đã sử dụng một loạt từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để miêu tả địa hình khó khăn mà người lính phải hành quân qua. Bên cạnh đó, hình ảnh “súng ngửi trời” như là một chi tiết đắt giá sáng rõ nhất cho cả khổ thơ trên. Súng biểu tượng cho chiến tranh, lại đang “ngửi trời”, khát vọng hòa bình, tự do của loài người. Đây cũng là một nét tinh nghịch của người lính trong thơ Quang Dũng. Đứng trên đỉnh dốc cao, hun hút, họ nhìn xuống “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” thấy thiên nhiên thật hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đậm chất trữ tình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Chỉ với 8 câu thơ đầu, Quang Dũng đã lột tả được nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Tiến, về người lính Tây Tiến vừa đẹp đẽ lại chân thực. Nhà thơ tiếp tục lia ngòi bút sắc bén của mình để phác họa hình ảnh người lính có những lúc mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân có những lúc tưởng chừng như phải khuất phục trước thiên nhiên hay hi sinh “gục lên mũi súng bỏ quên đời”. Có người cho rằng ý của nhà thơ ở chỗ này thể hiện các anh chiến sĩ do mỏi mệt quá nên gục xuống nghỉ ngơi nhưng cũng có người cho rằng họ hi sinh, họ chìm vào một giấc ngủ ngàn thu tươi đẹp. Nhưng dù nhìn vào khía cạnh nào ta cũng thấy sự khốc liệt của thiên nhiên, của chiến tranh đã đưa đẩy những người chiến sĩ vào vòng xoáy của sự đấu tranh sống còn vì tương lai của đất nước. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” càng lột tả được sự hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi luôn đầy rẫy những khó khăn, thử thách đang rình rập người lính. Để rồi đoàn quân Tây Tiến vẫn vượt qua:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu Mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ rất đỗi giản dị miêu tả cuộc sống thi vị hàng ngày với hình ảnh “cơm lên khói”,” nếp xôi”.
Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về đoàn quân hào hùng ấy với nét lãng mạn, hào hoa pha chút tinh nghịch:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Câu thơ có cả hình ảnh, âm nhạc “khèn”, ánh sáng của ngọn “đuốc”, đối lập hoàn toàn với những cảnh khó khăn nguy hiểm mà người lính đã trải qua ở phần trên.
Nhà thơ không chỉ chú trọng tới hình ảnh người lính đã mang màu sắc lãng mạn mà còn khắc họa chân dung bức tượng đài người lính sừng sững oai phong với ngôn ngữ gai góc, sắc nhọn mà chân thực:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chỉ với 8 câu thơ Quang Dũng đã lột tả được sự gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Tây Bắc với căn bệnh sốt rét hoành hành khiến cho đoàn binh “không mọc được tóc”. Rồi họ vẫn mơ mộng, nhớ về người thân nơi quê nhà, nhớ tới người thân của họ nơi tiền tuyến. Họ không chỉ phải đối mặt với thời tiết kinh hoàng mà họ còn phải đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ quê hương. Hình ảnh ẩn dụ “áo bào” thay chiếu như mang một nỗi niềm xót xa. Những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình, họ đã anh dũng nằm lại với đất mẹ. Đất mẹ ôm ấp vỗ về họ như những đứa con cần được bao bọc, chở che. Đây là đoạn thơ mang âm hưởng hào hùng bi tráng nhất bài thơ. Đến cả “Sông Mã” cũng phải gầm lên bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn.

“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Kết thúc bài thơ là một nỗi buồn còn đọng lại trong lòng người đọc – một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Tây Tiến vẫn như đang mời gọi, gieo vào lòng nhà thơ một cảm giác khó nói thành lời.
Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng, chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà tráng lệ đồng thời cũng xây dựng một bức tượng đài người lính hùng dũng đáng ngợi ca, khâm phục. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng thơ sâu lắng nhiều tình cảm, “Tây Tiến” như một ngọn gió mới thổi vào thơ ca Việt Nam một luồng gió mới – một miền kí ức hào hùng sâu sắc.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 14

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn đó, sống mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành bất tử” khi gặp ở trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu. Tự bao giờ, người lính đã trở thành những tượng đài bất tử như thế trong thơ? Đi qua gian khó, bước tới vinh quang, những người lính Tây Tiến cũng trở thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”, “đẹp mãi”. Ta gặp lại họ trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi lại đoàn quân, cùng theo đó là bao nỗi nhớ…
Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ bằng tất cả nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh vai, chứ không phải của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh gọi về bao cảm xúc…
Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã trên chặng đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và chia sẻ những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn trong không gian, theo những cung đường Tây Bắc.
Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những cái tên mới mẻ lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút, khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt, Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo hút của đèo cao, cái thế mênh mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường tượng ra những nơi thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc trắc, nơi đèo cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra, hai miền không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những hiểm trở ấy của cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:

“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội.”

Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất mát hi sinh luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà thơ không tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những người lính vốn xuất thân từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ nơi chiến trường khi đầu hãy còn xanh thì những người lính vẫn phải nhìn thấy trong đó những động lực để bước tiếp.
Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây Tiến, không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong sự hoang vu, hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi mắt tinh tế của những chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải đêm sương, dường như nó vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi trong tâm hồn người chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông nhẹ ra bởi một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ sau những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên cảm giác ấm áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ “cơm lên khói” vẫn đượm mùi “thơm nếp xôi”.
Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà còn lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng đường dừng chân yêu thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường dừng chân sau bao ngày hành quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ. Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng lên hồn rừng sâu núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi. Bừng lên trong những ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính Hà Thành đến từ xứ lạ phương xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên hoan cứ ấm nồng như thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn rộn rã âm thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân, tựa như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm ấm nồng êm đẹp đó trong thơ:

“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ”

Hay:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm hứng hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại mang một vẻ đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiếp tục ngân dài ở những câu thơ sau:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc. Âm điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như trong đêm liên hoan lửa trại mà dần trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn riêng của Tây Bắc. Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong đưa dòng nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi vơi. Thấm đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng khuâng không nói hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những đoàn binh không mọc tóc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.

Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hi sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên mộ chí, cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.

Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại những ấn tượng cho riêng mình.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 15

Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhoà sắc ban.

(Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)

Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).

Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”

Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.

Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng bảng lảng trùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm, tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống.

Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.

Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con người.

Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.

“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:

“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”

Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.

Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt, khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc cho nên rất nhiều chiến sỹ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ dở dang:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:

Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.

Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.

Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân dân:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.

Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau, sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những người trên đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t­ượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “ không mọc tóc” chứ không phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, nhưng bóng dáng duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn à còn rất lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến, hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành bất tử.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 16

Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất sắc với sự chứa chan về cảm xúc.

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

Hai câu thơ đầu gợi lên toàn bộ cảm xúc về nỗi nhớ và hoài niệm của tác phẩm. Câu thơ thứ nhất sử dụng nhịp 2/2/3 là tiếng gọi thân thương với cảm xúc nhớ nhung dâng trào . Quang Dũng gọi tên sông Mã vì sông Mã chính là địa danh gắn với chặng đường hành quân và chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn. Câu thơ thứ hai là nỗi nhớ chơi vơi không thể định hình được cứ mãi luẩn quẩn trong tâm trí nhà thơ và vẽ về điều gì đó xa xôi, mất mát, hụt hẫng. Sài Khao, Sương Lát là những địa danh rất nổi tiếng ở Tây Bắc được tác giả sử dụng để gợi lên nỗi nhớ chơi vơi của mình. “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” là câu thơ với toàn thanh bằng độc đáo tái hiện hình ảnh hoa hiện ra mờ mờ trong sương.

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Bức tranh thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ , hiểm trở với những khu vực đồi núi cao, vực thẳm: “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “súng ngửi trời” cùng với âm thanh rùng rợn khiến cho sự dữ dội ấy được tăng lên hàng ngàn lần. Bên cạnh đó, thiên nhiên nơi đây cũng rất êm dịu, huyền ảo “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, người lính được hòa mình vào cuộc sống gia đình, quây quần bên bếp lửa chiều tối. Đoạn thơ tiếp theo vẻ nên hình ảnh người lính anh dũng, hào hoa và cũng rất đỗi lãng mạn:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Người lính phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách, hi sinh. Dù can trường trong gian khổ nhưng trên con đường hành quân không ít người phải hy sinh nơi núi cao, vực thẳm. Họ hi sinh trong tư thế hiên ngang, vẫn cầm chắc súng trên tay: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa, gục lên súng mũ bỏ quên đời!” Vẻ hoang dại của núi rừng tây bắc luôn là hiểm nguy của biết bao con người: “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Tuy nhiên người lính vẫn mang trong mình một tâm hồn hào hoa, lãng mạn, họ hòa mình vào thiên nhiên để trút bỏ mọi nhọc nhằn thể xác. Cái nhìn lãng mạn đã giúp Quang Dũng tạo nên màu sắc bi tráng trong hình ảnh người lính Tây Tiến.

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Buổi liên hoan văn nghệ với hình ảnh ánh lửa bập bùng xua tan cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng và thể hiện được sự rạo rực, niềm vui trong lòng người. Chính trong không khí âm nhạc, vũ điệu đã góp phần chắp cánh cho tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người chiến sĩ. Tiếp theo là hình ảnh không gian sông nước tĩnh lặng và đầy thi vị.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"

Quang Dũng sử dụng bút pháp mềm mại, tinh tế như để chia sẻ buồn vui với người chiến sĩ trên con đường hành quân. Trong màn sương mờ với từng mảng ký ức của hoài niệm, đó là một sáng tạo mới về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn của nhà thơ.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

Con đường hành quân thật gian khổ biết bao khi người lính phải đối diện với những căn bệnh nguy hiểm. Bằng thủ pháp đảo ngữ, Quang Dũng nhấn mạnh vẻ đẹp của từng người chiến binh, thông qua cách miêu tả của tác giả những căn bệnh đó không còn đáng sợ nữa. Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của những chàng trai Hà Nội. Người lính dù có ở bất cứ nơi nào vẫn luôn hướng về quê hương thân yêu của mình.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Cái chết của người lính là cái chết oai hùng mang tầm sử thi, đó chính là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người lính. Hiện thực nơi đây thật khốc liệt nhưng lại rất hào hùng và không trở nên quá bi lụy.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."

Cuộc hành trình chiến đấu của người lính là một hành trình dài và khó khăn, thử thách. Người lính ra đi tìm đường bảo vệ tổ quốc phải trải qua bao thử thách của tự nhiên, của quân thù tưởng chừng như không thể hẹn ước ngày gặp lại. Quang Dũng đã kết thúc bài thơ với nhịp thơ chậm và tràn đầy cảm xúc.

Bài thơ sử dụng các biện pháp tu từ sáng tạo, bút pháp lãng mạn, từ ngữ chọn lọc, độc đáo đã thể hiện vẻ đẹp của người lính trên con đường hành quân và ngợi ca ý chí chiến đấu cao cả của họ.

Tây Tiến là bài thơ hay và sẽ mãi ghi dấu trong lòng người đọc về hình ảnh người chiến sĩ anh dũng vượt mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ biên cương tổ quốc.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 17

“Có một không gian nào,
Đo chiều dài nỗi nhớ?
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?”

(Trần Đình Chính)

​Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi nhớ thương của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Và Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi đặt tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”.

Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông - Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp với Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến năm 1984, Tây Tiến giải thể, thành lập Trung đoàn 52, Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về đơn vị cũ của mình, ông sáng tác thành công bài thơ với cái tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời gian sau, khi in lại trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, cồn cào, chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, đó là nỗi nhớ.

​Bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình của một thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, sông Mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện một điều rằng sông Mã gắn liền với suốt đoạn đường hành quân của người lính Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm để trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vang của người lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một tuyết bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ tứ thơ”. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỷ” để nhà thơ có thể giãi bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào trong tâm trí Quang Dũng, khiến cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh như một dải lụa, vương vấn trong lòng người đọc mãi không nguôi. Nỗi nhớ ấy đâu chỉ riêng về dòng sông Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ, nỗi nhớ ấy cũng đồng thời là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” đã khắc họa nên cái hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đã xa, về những khoảng thời gian, những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi những điều ấy sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối, không có thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi” đó là tiếng gọi tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ không nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ - nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới mênh mông của những hoài niệm. ​Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là những nơi họ từng đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, những địa danh ấy đã in đậm dấu chân của đoàn binh Tây Tiến. Càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.

​Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân gian nan, vất vả. Tuy thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi đây chắc chắn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm vượt núi, băng sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta như có cảm giác chính sương đã khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống trong mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, Chế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
​Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
​Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

Nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân, vất vả ấy vẫn có nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói: “Con người ta là hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chờn, lung linh, huyền ảo mà người lính cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái hay của nhà thơ là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ ngữ đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

​Ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên nhiên miền Tây Bắc. Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền ảo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng người trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với hàng loạt những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân luôn có sự nguy hiểm đang rình rập. “Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo khi không sử dụng từ “chót vót”, bởi như thế thì người đọc có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một cảm giác chân thật như thế thì điểm nhìn của anh phải ở từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm thăm, mà để có được cái nhìn như vậy thì buộc các anh phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn núi, con dốc đầy nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc hình dung các anh đang phải treo mình trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì đã tận 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác chênh vênh, gập ghềnh, vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ Quang Dũng, làm ta liên tưởng đến tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có bóng người. Quang Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay “đụng” thì ý câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới. Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi, mũi súng của các anh dường như đã chạm đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua cách nói này làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng thời đây cũng là những giây phút đùa vui, tếu táo, có nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau. Quang Dũng sử dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột tạo thành hai vế đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, những người lính vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy, phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt vỡ òa vui sướng trước cảnh thôn quê êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển khơi của mưa và sương đọng lại. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét nhưng cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bị rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”

Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. Và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.

​Bốn câu thơ này được phối hợp với nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét gân guốc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội họa của Quang Dũng lại được mọi người yêu mến đến vậy. Bởi quy luật sử dụng những gam màu trong hội họa là giữa những gam màu nóng phải pha chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đây nhà thơ cũng sử dụng đúng như vậy trong thơ ca của mình từ các thanh bằng – trắc. Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi vậy nói như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là một nhận xét thật tinh tế.

Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

“Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh, đó là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà “Tây Tiến” được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy “dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác giả không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các anh vẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống, rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có người ra đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một nén nhang tâm tình gửi lại.

​Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân của người lính :

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người, cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.

​Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”​

Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá những gian khổ, kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các anh bộ đội cụ Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước. Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

​Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của Giang Nam:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”

​Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng cũng như những người lính, không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những kỉ niệm khó có thể quên:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

​Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian ở bốn câu thơ không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ đây được thu hẹp lại thành “doanh trại” – một không gian bình yên, được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không phải gồng mình lên để chiến thắng những khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của các đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Nhưng thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường trong những đêm giao lưu văn nghệ của người lính Tây Tiến, khi có gió thổi qua làm cho những bó đuốc ấy phát ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì lại trở thành đuốc hoa, khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời, tình nghịch, phong độ và tài hoa của người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là những bộ trang phục đẹp của người con gái miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh nghịch của người lính khi các anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ cùng nhau vui đùa, nhảy múa xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, những chiếc khèn bè đã được dùng làm nhạc đệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múa lăm vông, hát đối, giao duyên, trong các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình đêm khuya của những chàng trai cô gái Lào khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên ắng. Khi tiếng khèn cất lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát, hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã không khỏi say sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính sơ khai mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác giả sử dụng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có cả âm nhạc, có những điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đây là không khí say mê ngây ngất. Điều đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”. Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên với một không khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng những người lính trẻ. Địa danh Viêng Chăn không phải là địa danh của Việt Nam, mà đó là thủ đô của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn Lào. “Nhạc về” tạo nên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành quân phía trước.

Ở đoạn thơ này, tác giả đã làm xuất hiện một thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên giờ đây không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà nó hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì vẫn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.

​So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bảng làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng thị hóa. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

“Người đi” chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình thường mở ảo, nó gợi màu sắc bảng lảng, khói sương và có chút man mác buồn. Địa danh duy nhất trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp, nơi đây có núi sông diệu lệ, có lung lũng lúa chín vàng, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở ra ở đó là một không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như một miền cổ tích, chính vì vậy mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nút nhấn. Nữ thi sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những cây lau giăng khắp mọi nẻo bến bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong văn chương Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô giác, bởi đó là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ Chế Lan Viên:

“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với

Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình

Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi

Suốt một đời với gió giao tranh”

Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy, có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ký ức. Sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như một bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ cây gỗ lớn dài, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng Quang Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai nói rằng đất Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được tác giả dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở đây vô tri vô giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô khan, còn “hoa đong đưa” thì lại có hồn người, thể hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên mặt nước sóng sánh, chòng chành. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người, cánh hoa ấy như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm đà màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn thủy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất miền Tây trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.

​Tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của tác giả đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài tổng thể bài thơ.

​Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ ba. Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi với lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người lính Tây Tiến, mang vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả một tập thể của mình, những con người anh hùng được tác giả gọi bằng cái tên khá thú vị - “Đoàn binh không mọc tóc”, cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân ấy” nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định một lực lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước.

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, có những con suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc đầu trở thành những anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập đến một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì kháng chiến chống Pháp, căn bệnh khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không chỉ người lính trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu cũng có nhắc đến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không mọc tóc” được ông sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo nghễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lính nhưng có nét hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác giả chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng hề yếu.

Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước” của nhà thơ Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế”

Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh ác liệt này. Thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng, màu xanh ấy không còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh lũy tre làng. Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất sáng tạo, tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho câu thơ khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ mọi gian khổ, khó khăn để tiến về phía trước, họ mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét: “Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc cả hai! Chỗ này tả lính rất khéo, nói được lính ôm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai hùm”. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”.

Dưới ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủ động, ngạo nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là để thích nghi với hoàn cảnh chiến đấu. Vũ Quần Phương có nhận xét: Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm mà không hề yếu. Đầu không mọc tóc không phải là hình ảnh gây cười hay nói chính xác hơn là cười mà xót xa, không cầm được nước mắt, bởi răng tóc là gốc con người, ai cũng muốn chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ biệt Hà Thành ra đi chiến đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây họ chấp nhận hy sinh mái tóc, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh viễn của Tổ quốc.

​Khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn. Nếu hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của tác giả để tạo nên bức tượng đài với ngoại hình ốm mà không yêu, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói về vẻ đẹp tâm hồn của họ. Và tâm hồn chính là sức mạnh nội tâm, là khí phách của những người lính Tây Tiến. Dù cuộc sống có vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây Tiến đồng thời xảy ra. Đó là “mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. Hai câu thơ nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của người lính Tây Tiến. Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to nhìn thẳng về phía quân thù mà bắn với chí khí thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình.Ban ngày các anh gửi ánh mắt trừng đầy căm thù tới kẻ địch. Hình ảnh “mắt trừng” là ánh mắt mở to, đầy dữ dằn hướng về phía trước, ánh lên sự quyết tâm, khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn binh như trong bài thơ “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn từng viết:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.

Nhiều người cho rằng : “ dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều trên phố Hàng Bông, nơi mà ông hay lui đến để đàm đạo văn chương. Hay có người cho rằng đó là những người lính đang nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, nhớ người yêu của mình với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, chứ không phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nhớ để mà thối chí nản lòng. Vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng mạn”như thế này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc sắc. Những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm. Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Tại sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân của họ. Vấn đề là nỗi nhớ ấy có ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ hay không? Hay họ vẫn hiên ngang chắp tay súng tiêu diệt kẻ thù. Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều là học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang mang theo khi ra chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ. Nỗi nhớ ấy cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong bài “Đất nước”:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ ấy, ta phải truy theo nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như Quang Dũng, dù có nhớ dáng hình yêu kiều của người con gái đi chăng nữa thì tất cả những người lính đều nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với những con đường nồng nàn hoa sữa:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 18

“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn cũ và sáng tác ra bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến “sông Mã” và đoàn quân “Tây Tiến” với một tiếng gọi thật tha thiết, trìu mến. Tiếp đến, điệp từ “nhớ” đã cho thấy cảm xúc chủ đạo của bài thơ - nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng. Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông” gợi về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm” nhằm khắc họa hình ảnh con dốc hiểm trở. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn hiên ngang - mũi súng trên vai được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời”. Họ hành quân trong đêm mưa không biết mệt mỏi, trong tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn. Sau những đêm hành quân gian khổ, họ dừng chân bên xóm làng, mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.

Đến khổ thơ thứ hai, Quang Dũng đã khắc họa đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong. Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là tả thực những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc.

Khổ thơ thứ ba là bức chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Chính vì vậy, họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã phải trải qua trong chiến đấu.

Họ không chỉ dũng cảm, mà còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.

Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật đảo ngữ: “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Hình ảnh này gợi ra đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên mảnh đất này đều có mộ của những chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được? Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng là hình ảnh con sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã - con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.

Khổ thơ cuối cùng là lời Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể nào phai. Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi” như một lời báo hiệu về sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc. Hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào phai mờ.

Như vậy, bài thơ Tây Tiến đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 19

Kháng chiến chông Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm "Tây Tiến" đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồn gió mới. Thông qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ.

Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc họa lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ:

" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh "Sông Mã", "Tây Tiến" giờ đây đều như trở thành những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương  của mình. Cụm từ "nhớ chơi vơi" gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chơi vơi, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác tỏng lòng thi sĩ Quang Dũng.

Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

"Sài Khao", "Mường Lát" đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ "chơi vơi" của tác giả với hình ảnh "sông Mã" ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh "đoàn quân mỏi" sau chặng đường dài. Cùng với sự "mỏi" sau chặng hàng quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ "hoa về" thay vì "hoa nở", "đêm hơi" chứ không phải "đêm sương". Cách kết hợp từ này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên.

Địa hình núi non hiểm trở "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại "thăm thẳm" như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể mất đi mạng sống của mình. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy "oai linh thác gầm thét", đêm đêm "cọp trêu người".

Quả là một nơi "rừng thiêng nước độc" thế nhưng những khó khăn đó không thể cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất rất đỗi trữ tình và chan chứa tình người. Những hình ảnh "hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi" thật huyền ảo tạo xúc cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.

Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hóa, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.

Tiếp theo, đoạn thơ thứ 3 của bài thơ Tây Tiến đã dựng lên bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian. Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng. Hình ảnh những người chiến sĩ sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: thân hình tiều tụy vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến "không mọc tóc, xanh màu lá". Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ "xanh màu lá, dữ oai hùm". Mặc dù, chiến đấu trong gian khổ nhưng các anh quân dân vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn "mộng qua biên giới" - mộng chiến công, khao khát lập công; "mơ Hà Nội dáng kiều thơm" , mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch. Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc "mộng" và "mơ" ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công. Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng "đời xanh" cho Tổ quốc mà không hề tiếc nuối. Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

Khổ thơ cuối cùng, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là minh chứng đẹp đẽ của thời đại chống thực dân pháp. Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

Qua bìa thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Quang Dũng (1921 - 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm.

- Quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

- Ông học đến bậc Trung học ở Hà Nội. Đến sau Cách mạng tháng Tám, Quang Dung tham gia quân đội. Từ năm 1954, ông là biên tập viên của Nhà xuất bản Văn học.

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, soạn nhạc…

- Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Một số tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988)...

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947:

  • Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ của Việt Nam.
  • Địa bàn hoạt động rộng: Hòa Bình, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nứa (Lào).
  • Xuất thân: chủ yếu là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh (một làng cũ thuộc tỉnh Hà Đông Cũ)

- Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, lấy tên là “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”

2. Bố cục

- Phần 1 (14 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến

- Phần 2 (8 câu tiếp theo): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng

- Phần 3 (8 câu tiếp theo): Chân dung người lính Tây Tiến

- Phần 4 (còn lại): Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây

3. Nội dung chính

      Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Đặc biệt là cảnh sông nước mênh mang, mờ sương khói của Tây Bắc càng làm cho bức tranh thiên nhiên ở đây hiện lên đầy ấn tượng và trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của những người lính Tây Tiến Hình tượng của những người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa mang tinh thần bi tráng. Những chặng đường hành quân dài qua núi non gập ghềnh, trắc trở và những trận chiến hùng tráng, sự hi sinh mất mất cũng không làm hình ảnh của các anh

4. Phương thức biểu đạt: Tự sự + miêu tả + biểu cảm

5. Thể thơ: 7 chữ (thất ngôn)

6. Giá trị nội dung

- Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

- Qua bài thơ, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang Dũng.

7. Giá trị nghệ thuật

- Những sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng với bút pháp tạo hình đa dạng đã dựng nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những đường nét khỏe khoắn, mạnh mẽ.

- Ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ

- Bút pháp lãng mạn kết hợp với tinh thần bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng

Đánh giá

0

0 đánh giá