Văn bản Đi lấy mật - Đoàn Giỏi - Nội dung, tác giả, tác phẩm

35.8 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Đi lấy mật Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Đi lấy mật lớp 7.

Đi lấy mật - Ngữ văn lớp 7

1. Tác phẩm Đi lấy mật (Trích Đất nước phương Nam)

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cai lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao quy một lớp thủy tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi [...], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở ffaauf lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cái thúng to tướng, trong thủng đựng một vỏ nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thủng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà mà nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tia nuôi tôi và thẳng Cỏ đi “ăn ong” đây! Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên tử những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

- Thôi, dừng lại nghỉ một lát. Bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵng đi! - Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Qủa là đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuống đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!

Tia nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngải, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cỏ bung vỏ nước ra, ngửa cổ kể miệng vào vỏ uống nước ừng ực. Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi – Đố mày biết con ong mật là con nào?

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc này cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quả đầu tôi một với tay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là mồi xanh đang bay đúng. Ông ảnh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cảnh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cảnh ngải khô trên đầu tia nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

 – Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.

Thằng Cỏ nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

– Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cap kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ.

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

– Đó, con thấy nó chưa?

– Thấy rồi!

Tôi kêu khẽ. Ờ, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con... hai con... Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo… eo... Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.

Chúng tôi giờ những nắm cơm vắt" ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhỏ nhẹ tỏa lên, phủ mở những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi. Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỉ nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lung luôn luôn biến đổi từ xanh hoa vàng, từ vàng hoa đỏ, từ đỏ hoa tím xanh,... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngải thì biến ra màu xanh lá ngải.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cải trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo giả màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay và và kêu líu xíu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi. đẹp quá, Cỏ oi! – Tôi tặc lưỡi, kêu lên.

– Chi

– Thú chim cỏ này mà đẹp gì!

- Ở đây chim nhiều quá [..]

– Thứ đổ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì máy sẽ biết.. Nó nói một cách lơ là như vậy rồi củ cắm của đội cải thùng đi. Tôi muốn hỏi về cải “sân chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu minh gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.

[...] Tôi chẳng hỏi gì thêm, cử lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cử nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khế Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kẻo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi! Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi

– Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

– Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho máy nghe đó? – Nó chành môi ra cười hì là, trong cái miệng thấy ghét quả.

Tôi ngước nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần đân nhớ lại lời má tôi kể

- …Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh! Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu! Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! – Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hẻ, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp – Gió thổi có hưởng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, minh mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ cắm cây dày, không bị ngọn gió thốc

thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đốn củi lội đến... 

– Kéo là gì, hở má?

– Ờ, kéo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa. Minh chặt lấy một khúc dài non thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít nhiều bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kéo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt() những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kéo chặt vào khoảng giữa tháng Mười một. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kéo bị dao rựa chặt, và nhánh kéo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kị, nó không bao giờ đóng tổ đâu...

– Coi bộ cũng không khó lắm hở má

Má nuôi tôi vỏ đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà đằng hắng, nói

- Chẳng dễ đâu, con ạ! Nhiều người trở thành “dân ăn ong” đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gửi không trở về.

–Ủa! Tại sao vậy, má?

– Định không đúng chỗ, đoản sai hướng gió chứ sao! 

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây trầm thấp kia. 

[...] Tôi ngồi nhìn lên kẻo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cảnh cây nào đó. Chính tia nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lung ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây.

Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi châu người ta đục ruỗng một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại lợp, bên bằng rom đủ kiểu, hình thù khác nhau... Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kéo như vùng U Minh này cả.

Những con ong vẫn nối cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.

[...] Chúng tôi ngồi ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bổ đề. Lâu lâu, vài ba trái quả vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bị. 

2. Tác giả Đoàn Giỏi

Đi lấy mật | Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức (ảnh 1)

1. Tiểu sử

- Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang.

- Gia đình: xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.

- Ông có những bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.

2. Cuộc đời

- Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940

- Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949)

- Từ 1949-1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam

- Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam

- Ông là viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III.

- Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư

- 07/04/2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.

3.  Phong cách nghệ thuật

- Hầu hết sáng tác của Đoàn Giỏi đều viết về thiên nhiên, con người và cuộc sống Nam Bộ

- Tái hiện vẻ đẹp của vùng đất phương Nam trù phú và những người dân Nam Bộ chất phác, thuần hậu, can đảm, trọng tình trọng nghĩa

- Lối miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình và ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương

Sơ đồ tư duy tác giả Đoàn Giỏi

Đi lấy mật | Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức (ảnh 4)

 

3. Tác phẩm Đi lấy mật

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

- Trích từ chương 9 truyện Đất rừng phương Nam (1957) kể lại một lần An theo tía nuôi và Cò đi lấy mật ong trong rừng U Minh.

- Vài nét về tiểu thuyết Đất rừng phương Nam:

+ Là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng

+ Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ

+ Nội dung chính: kể về cuộc sống của cậu bé An vì chiến tranh mà lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị.

b. Bố cục Đi lấy mật

Văn bản Đi lấy mật được chia thành 2 phần:

- Phần 1 (từ Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh … một lớp thủy tinh): khung cảnh thiên nhiên qua cái nhìn của An

- Phần 2 (tiếp đến

c. Thể loại

Văn bản Đi lấy mật thuộc thể loại: tiểu thuyết

d. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt của văn bản Đi lấy mật là tự sự

2. Giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Giá trị nội dung của văn bản Đi lấy mật

Đoạn trích kể lại một lần An theo tía nuôi và Cò đi lấy mật ong trong rừng U Minh. Lúc này, An đã có nhiều trải nghiệm mới lạ, độc đáo nơi núi rừng Nam Bộ.

b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Đi lấy mật

- Lối miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình

- Ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Đánh giá

5

1 đánh giá

1